Bản án 277/2021/HS-PT ngày 07/07/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 277/2021/HS-PT NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 07 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn A do có kháng cáo bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 477/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn A, sinh năm 1984; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn X, xã Y, huyện Z, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960 và con bà Trần Thị H(Đã chết); có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1992 và có 2 con. Bị cáo ra đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2019; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Tiền sự: Ngày 24/9/2019 bị Công an xã Y, Z, Hà Nội xử lý hành B phạt tiền 750.000 đồng về hành vi đánh nhau. Nhân thân: Ngày 18/01/2012 bị Công an huyện Z xử phạt vi phạm hành B bằng hình thức phạt tiền 3.000.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác và sử dụng vũ khí không có giấy phép; Ngày 27/7/2017 bị Công an huyện Z xử phạt vi phạm hành B bằng hình thức phạt tiền 2.000.000 đồng về hành vi sử dụng vũ khí không có giấy phép. Bi cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thanh Phương, luật sư Công ty Luật TNHH Lê Hồng Hiển và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Ngưi bị hại: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1979; địa chỉ: xã N, huyện Z, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn Gò Mè, xã Tiến Xuân, huyện Z, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có quan hệ quen biết nên khoảng tháng 5/2019, Nguyễn Văn A (sinh năm 1984; trú tại thôn X, xã Y, huyện Z, Hà Nội) góp vốn và cùng làm ăn kinh doanh mặt hàng sơn với anh Lê Văn D (sinh năm 1986; trú tại xã H, huyện H, tỉnh B) và anh A Văn D1 (sinh năm 1985; trú tại xã C, huyện L, tỉnh G). Đến tháng 8/2019, do mâu thuẫn trong quá trình làm ăn với anh D và anh D1 nên A rút toàn bộ vốn. Sau đó, anh Nguyễn Đình D2 (sinh năm 1974; trú tại xã T, huyện Z, Hà Nội) đã đóng góp vốn làm ăn với anh D và anh D1 thay phần vốn mà A đã góp trước đó. Khi rút vốn, A yêu cầu anh D, anh D1 và anh D2 không được bán hàng cho các mối khách hàng quen trước đây của A nhưng ba người không đồng ý nên xảy ra mâu thuẫn. Để không bị cản trở chuyện làm ăn, anh D2 đã nhờ bạn là anh Nguyễn Văn B (tức D “thông”, sinh năm 1979; trú tại xã N, huyện Z, Hà Nội) can thiệp, nói giúp với A. Do trước đó anh B có quan hệ quen biết với A nên đã đồng ý giúp anh D2. Khoảng 19h00 ngày 23/9/2019, anh B hẹn A đến nhà anh B để nói chuyện. Khi A đến thì anh B yêu cầu A không được ngăn cản việc anh D2, anh D và anh D1 bán sơn cho khách hàng cũ của A. Sau đó, A bực tức về việc anh D1 và anh D nhờ anh B đe dọa mình nên khoảng 20h50 phút cùng ngày, sau khi ra khỏi nhà anh B, A đến xưởng sơn của anh D, anh D1 và anh D2 ở thôn Đồng Bùi, xã Y, huyện Z để yêu cầu ba người không được bán Sơn cho các mối hàng cũ của A. Khi nghe thấy A yêu cầu thì anh D1 vẫn không đồng ý và nói với A: “Muốn bán cho ai là quyền của D1”. Lúc này, A bực tức và nhìn thấy anh D đứng cạnh nên A xông vào dùng chân đạp anh D 01 cái nhưng không trúng. Thấy anh D bị A đánh nên nhóm thợ trong xưởng của anh D đuổi A ra khỏi xưởng. Vụ việc đã được Công an xã Y, huyện Z lập biên bản và xử phạt hành B răn đe phòng ngừa.

Do vẫn còn bực tức với A nên khoảng 18h00 ngày 24/9/2019, anh D2 cùng anh B và anh Nguyễn Văn C (sinh năm 1996; trú tại thôn Gò Mè, xã Tiến Xuân, huyện Z, Hà Nội; là em xã hội của D) đi ô tô đến xưởng sản xuất đồ gỗ của A tại thôn Y, xã C, huyện Z, Hà Nội và rủ A đi uống bia tại quán G ở xã K, Z để hòa giải và dứt điểm mâu thuẫn. Sau khi uống bia xong, anh B nói với A: “Mày biết bố mày là ai không? Mày không tôn trọng tao”. Cùng lúc này, A bị anh C dùng tay tát 02 - 03 cái vào mặt nên bỏ về nhà.

Khong 23h00 cùng ngày, A gọi điện thoại cho anh B nói muốn gặp anh C để giải quyết việc anh C tát A. Anh B đã báo lại cho anh C biết thì anh C rủ anh B cùng đi đến nhà A. Trước khi đi, anh C gọi điện cho A hỏi: “Mày đang ở đâu?” A mở máy điện thoại nghe nhưng không trả lời và tắt máy. Sau đó, anh B nhờ anh Phan Văn H (sinh năm 1989; trú tại thôn V, xã N, huyện G, Hà Nội) dùng xe ô tô chở anh B và anh C đi đến nhà A. Lúc này, A nghe điện thoại, biết anh C và anh B sẽ đến nhà tìm mình nên đã chuẩn bị đánh lại. A lấy 01 khẩu súng săn 02 nòng bắn đạn ghém dài 117cm đựng trong chiếc túi cất dưới gầm giường ngủ nhà mình, trong súng lắp sẵn 01 viên đạn ở nòng bên phải. A cầm súng đi xuống bếp và bật điện sân nhìn ra cổng nhưng không thấy ai nên cầm súng đi vào buồng để súng ở đầu giường ngủ. Đến 0h05 phút ngày 25/9/2019, anh C và anh B đến gần nhà A và gọi điện thoại cho A hỏi: “Mày đang ở đâu, tao đang ở đầu ngõ nhà mày đây”. Do đã chuẩn bị sẵn súng để đánh nhau nên A trả lời B: “Ừ thế mày đến luôn đi”. Sau đó, A dậy cầm khẩu súng đi quanh trong nhà, thì được chị Nguyễn Thị H (là vợ của A) đi theo sau can ngăn và nhiều lần nói: “Em xin anh đừng đánh nhau” nhưng A không nghe. Khoảng 02 phút sau, A nghe thấy tiếng bước chân người đi và tiếng động ngoài cổng nên cầm súng chuẩn bị mở cửa nhà ra ngoài để bắn nhau, thì chị H quỳ xuống ôm chân của A van xin: “Đừng ra ngoài gặp họ”. A không nghe mà nói với chị H: “Đời anh nghèo nhưng không chịu hèn” và đẩy chị H ngã rồi mở cửa ngách ở cuối nhà cầm súng chạy ra sân đứng cách cổng khoảng 06 - 07m quan sát về phía cổng. A thấy có anh C đang trèo tường rào bên phải và anh B đứng sau cánh cổng sắt sát trụ cổng bên phải nên đã cầm súng trên tay phải, tay trái cầm thân súng gập xuống và gập lên để lên đạn rồi cầm súng bằng tay phải giơ lên nòng súng lên ngang mặt và hướng nòng súng ra phía cổng nơi anh C và anh B đang đứng. A hét lên một tiếng và bóp cò súng làm đạn nổ trúng vào anh B bị thương. Thấy vậy, anh C cùng anh B bỏ chạy ra đầu ngõ lên xe ô tô của anh Hà đi về; Sau đó, anh Hà và anh C đưa anh B đi cấp cứu, điều trị tại bệnh viện Đa khoa huyện G và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Hậu quả anh B và B không chết, anh B bị trúng đạn ghém tổn thương 08% sức khoẻ.

Sau khi phạm tội, Nguyễn Văn A giấu khẩu súng săn 02 nòng dài khoảng 117cm dùng bắn anh B và anh C ở vườn nhà rồi bỏ trốn. Ngày 27/9/2019, A mang theo khẩu súng trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Z đầu thú và giao nộp tang vật.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án hồi 06h30 phút ngày 25/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Z, thành phố Hà Nội lập ghi nhận:

“… Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại trước cổng cửa nhà Nguyễn Văn A ở thôn X, xã Y, Z, Hà Nội. Các hướng tiếp giáp như sau: Phía Bắc tiếp giáp cổng cửa sắt nhà anh Nguyễn Tiến Sơn; phía Đông đường đi ra đường liên xã Y đi S xã N; phía Nam tiếp giáp nhà Nguyễn Văn A; phía Tây tiếp giáp hướng đi qua ngõ vào thôn và ra sông S. Hiện trường nơi xảy ra vụ Nguyễn Văn A dùng súng bắn Nguyễn Văn B tại đường trước cửa nhà A, có chiều rộng 3,1m. Vị trí được xác định khám nghiệm phát hiện tại mặt đường có nhiều mảnh kim loại dẹt mang hình tròn, có kích thước 0,3cm được đánh dấu vị trí số 01, cách cổng nhà A 2,4m về hướng Nam và cách trụ cổng nhà anh Sơn hướng Đông 1m được xác định là tâm vị trí. Từ vị trí số 01 về hướng Bắc 65cm trên mặt cửa kim loại màu ghi cổng có kích thước (2,98x3,95)m phát hiện nhiều vết răm kim loại sau 0,2cm có diện vết răm trên mặt kim loại diện (50x95)cm được đánh dấu vị trí số 02, cách mặt đất 60cm và cách trụ cổng bên phải hướng Đông là 70cm, được xác định là tâm vị trí từ vị trí số 02 về hướng Đông Nam 3,5m phát hiện hàng rào tường cao 1,6m có 02 trụ màu xanh ở giữa được làm bằng lan can sắt hàn gắn dài 1,97m cao 80cm, kích thước thanh sắt dạng vuông (2x4)cm trên thanh sắt có trang trí kim loại vát nhọn. Tại hiện trường phát hiện 08 đầu nhọn kim loại dạng mũi giáo màu trắng rơi ra sân hàng rào lan can được đánh dấu vị trí số 03. Cổng nhà đối tượng Nguyễn Văn A cao 1,95m rộng 2,25m được làm bằng khung sắt, các thanh sắt được hàn gắn dọc với nhau có khe tại 02 thanh sắt ở cổng ở mỗi cánh cửa phát hiện mép ngoài trên đầu phía trên bị long rơi mất đầu nhọn rơi ra sân, tại vị trí trên cửa kim loại vị trí số 02 phát hiện 65 vết lõm tròn có đường kính 0,3cm và 0,2cm. Vị trí số 01 phát hiện 54 hạt dẹt kim loại màu sáng ghi kích thước 0,3cm. Tại vị trí sân hướng Tây nhà Nguyễn Văn A có cửa mở ra khu sân vườn sau nhà anh Nguyễn T phát hiện tại góc sân có 01 chuồng gà làm bằng khung gỗ quây xung quanh bằng tấm kim loại, mặt trên có tấm mica màu trắng và gỗ phía trên phát hiện 01 khẩu súng có 01 nòng, súng dài 127cm, báng gỗ màu cánh dán dài 40cm, nòng súng dạng tròn kim loại dài 84cm, trên thân súng có ký hiệu SAVAGE ARMS CORPORATION CHICOPEEFA LL SMASS USA được đánh dấu vị trí số 04 cách tường xưởng nhà anh Sơn 1,3m về hướng Tây và cách tường xưởng nhà anh Sơn hướng Bắc ra 1m được xác định là tâm vị trí khẩu súng. Tại vị trí sân trước cổng vào phát hiện 02 hình tròn bằng giấy, mỗi hình tròn giấy có kích thước đường kính 2,5cm và có 01 vỏ nhựa vỡ rách màu trắng vòng kích thước (3x4)cm có lỗ tròn được đánh dấu vị trí số 05 cách trụ cổng hướng Bắc là 2,3m và cách cửa vào phòng khách hướng Đông là 4,3m được xác định là tâm vị trí. Từ vị trí số 05 cách hướng Tây 3,4m phát hiện ở mặt đường bê tông có 01 hình tròn bằng giấy kích thước đường kính 2,5cm được xác định đánh dấu số 12 cách tường hướng nam 50cm và cách trụ cổng 80cm về hướng Đông. Từ vị trí số 05 về hướng Nam 5,6 m phát hiện 01 thanh gậy gỗ dài màu vàng kích thước (70x3x2,5)cm tại gốc lộc vừng được xác định là tâm vị trí đánh số 14. Khám nghiệm hiện trường phát hiện cổng sắt kim loại màu trắng có chiều cao 1,95m, rộng 2,25m. Khám nghiệm trên cánh cổng phía từ sân nhìn ra đường phát hiện dấu vết chấm đen cách trụ cổng 25cm về hướng Đông và cách mặt đất 90cm đánh dấu vị trí số 09 là dấu vết đạn được bắn ra hướng từ sân ra cổng và từ sân ra đường, chấm đen phát hiện trên cổng vị trí số 09 có diện (7x13)cm. Từ vị trí số 09 đến vị trí số 09 hướng Bắc 3,2m, mặt sân cách mặt đường 3cm.

Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu giữ được: 03 vỏ giấy dạng hình tròn đường kính 2,5cm; 54 vỏ kim loại dạng tròn dẹt kích thước đường kính 0,2 và 0,3cm; 01 gậy gỗ dài (70x3x2,5)cm; 01 vỏ nhựa kích thước (3x4)cm; 01 khẩu súng dài 127cm, báng súng bằng gỗ có ký hiệu CHICOPEEFA LL SMASS USA.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 870/TTPY ngày 30/9/2019 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Hà Nội đối với anh Nguyễn Văn B, kết luận:

“… Kết luận tại thời điểm giám định:

1. Các vết thương cẳng tay phải và mông phải: 03%.

2. 03 dị vật cản quang phần mềm cẳng tay phải và mông phải: 05%.

3. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ tổn thương và di chứng, đề nghị giám định bổ sung sau khi ra viện.

4. Nhiều khả năng các thương tích do hỏa khí (dị vật cản quang kích thước khoảng 0,5cm x 0,5cm đâm D1) gây nên.

Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 08% (Tám phần trăm)”.

Sau khi anh Nguyễn Văn B ra viện, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số 795/PC02-Đ3 ngày 27/8/2020 trưng cầu giám định bổ sung đối với bị hại D để xác định bổ sung mức độ % tổn hại sức khỏe theo yêu cầu của Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội. Anh Nguyễn Văn B có đơn từ chối việc giám định bổ sung tỷ lệ % tổn thương cơ thể.

Tại bản kết luận giám định số 5734/C09(P3) ngày 04/10/2019 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

“… - Khẩu súng hai nòng có chiều dài 117cm gửi đến giám định là súng săn bắn đạn ghém cỡ 12, không phải vũ khí quân dụng và không thuộc loại có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.

- Khẩu súng dài 127cm gửi đến giám định là súng bắn đạn ghém cỡ 12, thuộc loại có tính năng tác dụng tương tự như súng săn, không phải vũ khí quân dụng và không có tính năng tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng.

- 09 vỏ đạn và 03 viên đạn có ký hiệu 12 gửi giám định là vỏ và đạn của loại đạn ghém cỡ 12, không phải là vũ khí quân dụng, sử dụng bắn được cho 02 khẩu súng nêu trên.

- Các nút nhựa màu trắng, các mảnh giấy tròn đường kính 20mm, các nút bông tròn màu hồng và các viên bi kim loại màu đen là thành phần chế tạo đạn ghém các cỡ 12, 16, 20…32, không phải vũ khí quân dụng…” Tại bản kết luận giám định số 5726/C09-P2 ngày 09/10/2019 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

“… - Các hạt kim loại hình trụ tròn, vỏ bẳng kim loại đều là hạt nổ, thường được dùng để phát lửa đốt cháy liều phóng trong các loại đạn.

- Chất bột màu xám là thuốc phóng NC (Nitroxenlulo), thường được dùng làm liều phóng trong các loại đạn”.

Tại bản kết luận giám định số 5719A/C09(P3) ngày 04/10/2019 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

“… - 06 vỏ đạn được đánh số thứ tự (1,3,4,6,8,9) gửi giám định là do khẩu súng hai nòng dài 117cm bắn ra. Dấu vết do súng bắn để lại trên 03 vỏ được đánh số thứ tự (2,5,7) không đủ cơ sở để giám định truy nguyên ra súng đã bắn.

- Khi sử dụng 02 khẩu súng và đạn nêu trên bắn vào người có thể gây sát thương (chết hoặc bị thương).

- 54 mảnh kim loại, 03 mảnh giấy tròn và 01 vỏ nhựa KT (3,2x2,5)cm là các thành phần được nhồi (đóng) trong đạn ghém cỡ 12, không phải vũ khí quân dụng. Dấu vết trên các thành phần nêu trên không đủ cơ sở giám định truy nguyên ra súng đã bắn”.

Trong vụ án trên, Nguyễn Văn C cùng anh Nguyễn Văn B đến nhà Nguyễn Văn A để thách đố đánh nhau và bị A dùng súng săn 02 nòng bắn 01 viên đạn ghém về phía anh B và B đang đứng ngoài cánh cổng nhà A làm anh B trúng đạn bị thương. Do không bị trúng đạn nên anh C không yêu cầu xử lý bị cáo A và không yêu cầu A bồi thường dân sự.

Đối với việc anh C dùng tay tát trúng mặt Nguyễn Văn A vào ngày 24/9/2019. Kết quả điều tra xác định anh C đánh A nhưng không gây thương tích cho A và A đã từ chối giám định thương tích, không yêu cầu xử lý hình sự đối với B. Ngày 10/9/2020, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an Hà Nội đã quyết định xử phạt vi phạm hành B bằng hình thức phạt tiền 2.500.000 đồng đối với Nguyễn Văn C về hành vi xâm hại sức khoẻ của người khác.

Anh Nguyễn Văn B yêu cầu bồi thường thiệt hại và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Văn A.

Cáo trạng số 411/CT-VKS-P2 ngày 03/11/2020, Viện kiểm sát nhân dânthành phố Hà Nội truy tố Nguyễn Văn A về tội "Giết người" theo điểm n, l khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 477/2020/HS-ST ngày 17/12/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố: Nguyễn Văn A phạm tội "Giết người". Áp dụng điểm n, l khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 15; Điều 57 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt: Nguyễn Văn A 08 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015;

Buộc Nguyễn Văn A phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1979; Địa chỉ: thôn M, xã N, huyện Z, thành phố Hà Nội số tiền 17.450.000 đồng.

Giành quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự cho anh Nguyễn Văn B đối với bị cáo Nguyễn Văn A về các chi phí mổ, điều trị lấy đạn ra khỏi cơ thể anh B khi anh B có yêu cầu.

Bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm, về nghĩa vụ thi hành án.

Ngày 28/12/2020, bị cáo Nguyễn Văn A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn A thành khẩn khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội và bị xét xử về tội danh như bản án sơ thẩm đã nêu là không oan. Bị cáo đề nghị xem xét việc đã bồi thường 37.500.000 đồng đủ số tiền mà bản án sơ thẩm tuyên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Luật sư bào chữa cho Nguyễn Văn A đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo ra đầu thú, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội chưa đạt gây thương tích cho bị hại là 8%. Bị cáo phạm tội do tinh thần bị kích động mạnh do lỗi của các bị hại, nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s và điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, sau khi xét xử sơ thẩm, người bị hại là anh B có đơn đề nghị giảm hình phạt 8 năm tù của bản án sơ thẩm đã tuyên cho bị cáo. Vợ bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh về việc gia đình chấp hành tốt pháp luật, gia đình có chú ruột là người có công với cách mạng, có huân chương của liệt sỹ Nguyễn Văn T và liệt sỹ Nguyễn Văn T1. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS và thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, gây thương tích gây 8%. Người bị hại là anh B tiếp tục có đơn ngày 25/4/2021 (nội dung đã nhận số tiền 37.500.000 đồng khắc phục hậu quả) và anh B cũng và đề nghị cho bị cáo được hưởng khoan hồng. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn A để bị cáo cải tạo tốt, sớm trở về với gia đình lao động nuôi các con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Văn A về tội “Giết người” quy định tại điểm n, l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng. Bị cáo ra đầu thú, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, đã khắc phục bồi thường cho bị hại, là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Việc mâu thuẫn giữa các bên xảy ra từ chiều, cũng chỉ xô xát nhỏ nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS. Quyết định của bản án sơ thẩm chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 mà áp dụng Điều 54 là thiếu sót. Tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới: gia đình có người có công với cách mạng; bản thân đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả, bị hại cũng đề nghị giảm hình phạt so với mức hình phạt sơ thẩm tuyên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyễn Văn A khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, các vật chứng thu giữ, thực nghiệm điều tra, các Kết luận giám định…và tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng tháng 8 năm 2019, do Nguyễn Văn A mâu thuẫn về việc góp vốn kinh doanh mặt hàng sơn với các anh Lê Văn D, Nguyễn Văn D1. Đến tháng 8 năm 2019, A rút vốn không kinh doanh nữa. Anh D và D1 cho anh Nguyễn Đình D2 cùng góp vốn kinh doanh, A ngăn cản không cho nhóm anh D2 bán sơn cho khách cũ của A. Anh D2 nhờ Nguyễn Văn B can thiệp nói với A thì giữa A với anh B, anh Nguyễn Văn C (bạn của D) lại xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 18 giờ ngày 24/9/2019, A và anh B, anh C đã có xô xát tại quán bia, A có bị anh C tát. A bỏ về nhà, sau đó đến 23 giờ có gọi điện thoại cho anh B nói muốn gặp anh C để giải quyết việc A bị anh C tát. Anh B gọi anh C cùng đi và gọi điện cho A hỏi đang ở đâu. Biết anh B và anh C sẽ đến nhà tìm mình nên A chuẩn bị 01 khẩu súng săn 02 nòng bắn đạn ghém dài 117cm lắp sẵn 01 viên đạn ở nòng bên phải và để sẵn ở đầu giường ngủ. Khoảng 0h0 phút ngày 25/9/2019, anh C gọi điện thoại hỏi A đang ở đâu, sau đó D và B đến nhà A luôn. A dậy cầm súng đi quanh trong nhà, chị Nguyễn Thị H (là vợ của A) đã can ngăn A nhưng A không nghe. Khoảng 2 phút sau, A nghe có tiếng bước chân người đi và tiếng động ngoài cổng, A cầm súng đi ra sân thì chị H quỳ xuống ôm chân, A đẩy chị H ngã và mở cửa ngách nhà xông ra sân đứng cách cổng khoảng 6-7m quan sát về phía cổng thấy anh B và anh C đứng ngoài cổng sắt nhà A (cổng chấn song sắt thưa, ở vị trí đóng), A cầm súng trên tay phải, tay trái cầm thân súng gập xuống gập lên để lên đạn rồi giơ nòng súng lên ngang mặt và hướng nòng súng ra phía cổng nơi anh C và anh B đang đứng và bóp cò. Đạn nổ, anh B bị trúng đạn vào cánh tay phải và mông, cùng anh C bỏ chạy và được anh Hà và anh C đưa đi cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện G và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Hậu quả anh B bị trúng đạn ghém tổn thương 08% sức khỏe.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử Nguyễn Văn A về tội “Giết người” (chưa đạt) quy định tại điểm l, n khoản 1 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của Nguyễn Văn A xin giảm nhẹ hình phạt:

[2.1]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nguyễn Văn A phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân xấu. Sau khi phạm tội Nguyễn Văn A ra đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội, đã bồi thường khắc phục hậu quả 20.000.000 đồng cho anh B và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng Quyết định của bản án sơ thẩm mới áp dụng điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51, là có thiếu sót.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ là phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Việc bị cáo bị anh C tát diễn ra từ chiều tối, bị cáo đã về nhà, do vậy Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e khoản 1 nhưng đã xem xét xác định bị hại có một phần lỗi, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, là có cơ sở.

[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyễn Văn A thành khẩn khai nhận, ăn năn hối hận. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục bồi thường thêm, tổng số đã bồi thường 37.500.000 đồng là đầy đủ tổng số tiền bồi thường trách nhiệm dân sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận trước mắt giải quyết (37.450.000 đồng, gồm khoản chi phí điều trị vết thương, tiền mất thu nhập và tổn thất tinh thần). Ngoài ra, gia đình bị cáo cũng xuất trình thêm tài liệu về việc trong gia đình bị cáo có chú là liệt sĩ. Bị hại anh Nguyễn Văn B cũng có đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên đối với Nguyễn Văn A. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm.

Xem xét đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và tỉnh tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm và quy định tại Điều 50, Điều 54, Điều 57 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị của bị hại cũng như của luật sư bào chữa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn A.

[3] Kháng cáo được chấp nhận nên Nguyễn Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 343, khoản 2 Điều 344, Điều 345, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thương vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Sửa phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 477/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

Áp dụng điểm n, l khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Văn A 07 năm tù về tội "Giết người" (chưa đạt). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/9/2019.

[2] Ghi nhận Nguyễn Văn A đã bồi thường tổng số 37.500.000 đồng cho bị hại Nguyễn Văn B, đối trừ bị cáo không phải thi hành khoản tiền 17.450.000 đồng phần trách nhiệm dân sự của bản án hình sự sơ thẩm.

[3] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 07/7/2021. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 277/2021/HS-PT ngày 07/07/2021 về tội giết người

Số hiệu:277/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về