Bản án 277/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 277/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 3 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1081/2017/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2017 về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thúy H, sinh năm 1985; nơi đăng ký thường trú: đường Đ, phường X, thị xã Y, tỉnh Z; địa chỉ liên hệ: đường E, phường F, thị xã G, tỉnh Z (bà H có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1977; nơi đăng ký thường trú: đường C, Phường H, quận J, cư trú tại: đường C, Phường H, quận J, Thành phố Hồ Chí Minh (ông T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Nguyễn Thúy H trình bày: Bà và ông Nguyễn Minh T tự nguyện kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường H, quận J, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống, giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc do ông T thường xuyên nhậu say về nhà kiếm chuyện chửi mắng vợ cô cớ, đập phá đồ đạc trong nhà, nhiều lần ném đồ trúng bà H, bà khuyên can nhiều lần không được, hầu như ngày nào vợ chồng cũng cải nhau. Đến năm 2016 do không chịu đưng được nữa nên bà đưa con trai về quê mẹ ruột sinh sống, thỉnh thoảng ông T mới về thăm con. Thời gian vợ chồng sống ly thân, bà có khuyên ông T bỏ rượu bia nhưng ông T vẫn không thay đổi, vẫn thường xuyên nhậu say và gọi điện thoại chửi mắng bà thậm tệ. Nay bà H nhận thấy không còn tình cảm gì với ông T và muốn ổn định cuộc sống, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà H khai bà và ông T có 01 con chung Nguyễn Minh K, sinh ngày 18/9/2014. Hiện con chung đang sống ổn định với bà từ năm 2016 đến nay. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H khai không có.

Bị đơn, ông Nguyễn Minh T mặc dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập để cung cấp lời khai, thông báo và giấy triệu tập tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng đều vắng mặt không có lý do và cũng không có bất cứ yêu cầu gì về vụ án.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thúy H vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông T vì cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc, hai bên đã sống ly thân từ 02 năm nay, mỗi người tự lo cuộc sống của mình, tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông T để ổn định cuộc sống. Từ khi ly thân, bà về quê sống và có công việc làm tóc ổn định, có thu nhập đủ khả năng nuôi con nên bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung như trình bày ở trên và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà H khai không có.

Ông Nguyễn Minh T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận J phát biểu:

- Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán là đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, còn thời hiệu khởi kiện, xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 94/2014, quyển số 01/2014 ngày 28/5/2014 do Ủy ban nhân dân Phường H, quận J, Thành phố HồChí  Minh cấp thể hiện hôn nhân giữa bà H và ông T là hợp pháp. Xét thấy, vợchồng phải có trách nhiệm quan tâm, giúp đỡ nhau nhằm tạo dựng hạnh phúc gia đình, nhưng trong cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn mà theo bà Hằng trình bày là do có nhiều bất đồng về quan điểm sống. Bà H xác định không còn tình cảm với ông T, đã sống ly thân, không còn khả năng hàn gắn quan hệ vợ chồng nên yêu cầu ly hôn. Ông T không có mặt để tham gia phiên tòa, qua đó chứng minh ông không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Vì vậy, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng đoàn tụ, nghĩ nên chấm dứt quan hệ hôn nhân của các đương sự theo yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở. Đối với con chung Nguyễn Minh K, do cháu còn nhỏ và hiện tại đang sống với mẹ nên bà H yêu cầu nuôi con là có cơ sở chấp nhận. Bởi các lẽ trên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thúy H đối với ông Nguyễn Minh T; về con chung: giao con chung cho bà H nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông Nguyễn Minh T; về tài sản chung, nợ chung bà H khai không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày và tranh luận của đương sự tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn – bà Nguyễn Thúy H nộp đơn xin ly hôn với bị đơn là ông Nguyễn Minh T. Theo kết quả xác minh của Công an Phường H, quận J thì ông T hiện đang cư trú tại đường C, Phường H, quận J, Thành phố Hồ Chí Minh, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình theo qui định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Minh T không đến Tòa án để giải quyết mặc dù đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập để trình bày ý kiến, thông báo tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Minh T.

[2] Về pháp luật nội dung:

- Về yêu cầu ly hôn: Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 94/2014, quyển số 01/2014 ngày 28/5/2014 do Ủy ban nhân dân Phường H, quận J, Thành phố Hồ Chí Minh thì quan hệ hôn nhân của bà Nguyễn Thúy H và ông Nguyễn Minh T là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Theo bà H khai, quá trình chung sống, ông Nguyễn Minh T không quan tâm chăm sóc đến gia đình, thường xuyên nhậu say, về nhà chửi mắng vợ, đập phá đồ đạc trong nhà, bà nhiều lần khuyên can không được. Hai bên đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay, mỗi người tự lo cuộc sống của mình, không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy, trong quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông T không có sự quan tâm, chia sẻ và tôn trọng nhau, tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, phía bà H kiên quyết xin ly hôn, ông T không có mặt khi Tòa án triệu tập và cũng không có ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà H. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ nên chấp nhận.

- Về yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà H: Bà H và ông T có01 con  chung tên Nguyễn Minh K, sinh ngày 18/9/2014. Hội đồng xét xử xét thấy trẻ K còn nhỏ, hiện đang sống chung với bà H, cần sự chăm sóc của mẹ và ổn định về nơi ở, ổn định về tâm lý. Phía ông T không có bất cứ yêu cầu nào về việc nuôi dưỡng con chung. Do vậy, căn cứ vào Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà H là có căn cứ chấp nhận. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông T do bà H không có yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà H khai không có.

- Xét ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân quận J là có cơ sở nên chấp nhận.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016, bà H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được cấn trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007139 ngày 09/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận J.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1Điều 39;  Khoản 4 Điều 147; điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 1 Điều 273; Khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Nguyễn Thúy H:

-  Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thúy H được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

- Về quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con:

 Giao trẻ Nguyễn Minh K, sinh ngày 18/9/2014 cho bà Nguyễn Thúy H được trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông Nguyễn Minh T do bà Nguyễn Thúy H không có yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi.

Ông Nguyễn Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chứctheo quy định có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Án phí ly hôn sơ thẩm do bà Nguyễn Thúy H phải nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được cấn trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007139 ngày 09/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận J.

3. Quyền kháng cáo:

Bà Nguyễn Thúy H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Minh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành ánđược thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 277/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:277/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về