TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 272/2021/HS-ST NGÀY 20/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 277/2021/TLST- HS ngày 27 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 278/2021/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với Bị cáo:
Họ và tên: Cà Văn X; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1968, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản Nà Lốm, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cà Văn Hặc (đã chết); Con bà: Cà Thị M (đã chết); Vợ: Lò Thị H, sinh năm 1978 và có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2000; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 19/6/2021, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 19/6/2021, Cà Văn X đi bộ một mình từ nhà ở Bản N L, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên và cầm theo 1.300.000 đồng với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến ngã ba thuộc thôn Độc Lập, xã T N, huyện Đ B, Bị cáo gặp một người đàn ông chạy xe ôm (không biết tên, địa chỉ), Bị cáo thuê 100.000 đồng chở đến gần UBND xã T L rồi chở Bị cáo quay về, người chạy xe ôm đồng ý rồi chở Bị cáo đến gần UBND xã Thanh Luông, Bị cáo nói: "Đứng ở đây chờ", một mình Bị cáo đi bộ vào trong bản P L, xã T L, huyện Đ B tìm mua ma túy, đến nơi Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) đang đứng ở ngoài đường, Bị cáo hỏi: "Có Heroine và Hồng phiến bán không?" Người đàn ông trả lời: "Có, mua bao nhiêu" Bị cáo nói: "Bán cho 1.000.000 đồng Heroine và 200.000 đồng Hồng phiến" Người đàn ông nói: "Đưa tiền đây" Bị cáo lấy ra 1.200.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền rồi đưa cho Bị cáo 02 gói: Trong đó 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong có 02 viên hồng phiến màu hồng và 01 viên hồng phiến màu xanh và 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng, mở bên trong được gói bằng nilon màu trắng, bên trong là Heroine. Bị cáo cầm 02 gói ma túy đó cất giấu vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ đến chỗ người chạy xe ôm đang chờ, còn người bán ma túy cho Bị cáo đi đâu làm gì Bị cáo không biết. Khi đi đến chỗ người chạy xe ôm, Bị cáo nói chở Bị cáo đi về, đi về đến ngã ba thuộc thôn Đ L, xã T N, huyện Đ B, Bị cáo xuống xe máy trả công cho người chạy xe ôm 100.000 đồng rồi một mình Bị cáo đi bộ về nhà. Khoảng 14 giờ 30 phút, khi Bị cáo đi đến khu vực bản N L, xã T N, huyện Đ B thì bị Tổ công tác Công an xã T N và Đồn biên phòng T L yêu cầu Bị cáo đứng lại kiểm tra, Bị cáo đã tự giác lấy 02 gói ma túy ở trong túi quần bên trái đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác mời người chứng kiến đến tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng, sau đó đưa Bị cáo cùng toàn bộ hồ sơ, vật chứng về Công an huyện Đ B để điều tra làm rõ.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 19/6/2021 đã xác định: Khối lượng số cục bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Cà Văn X có khối lượng là 1,19 gam, trích 0,09 gam gửi giám định, vật chứng còn lại là 1,1 gam; Khối lượng số viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của Cà Văn X có khối lượng là 0,21 gam, trích 0,11 gam gửi giám định, vật chứng còn lại là 0,1 gam; Khối lượng 01 viên nén màu xanh nghi ma túy tổng hợp thu giữ của Cà Văn X có khối lượng là 0,1 gam gửi toàn bộ giám định..
Tại bản kết luận giám định số: 718/GĐ-PC09 ngày 27/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Cà Văn X gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA; Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/05/2018, không hoàn lại đối tượng giám định. Mẫu viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp trích ra từ vật chứng thu giữ của Cà Văn X gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC; Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/05/2018, không hoàn lại đối tượng giám định. Không tìm thấy chất ma túy trong mẫu viên nén màu xanh thu giữ của Cà Văn X gửi giám định.
Tại bản cáo trạng số 224/CT-VKSĐB ngày 26/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B truy tố bị cáo Cà Văn X về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Bị cáo: Từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy: 1,19 gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,09 gam, vật chứng còn lại là 1,1 gam) và 0,21 gam Methamphetamine (đã trích 0,11 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,1 gam).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.
Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Bị cáo Cà Văn X khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung,biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 19/6/2021 tại khu vực bản Nà Lốm, xã T N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên Cà Văn X đã có hành vi cất giấu trái phép tại túi quần bên trái Bị cáo đang mặc 1,19 gam Heroine và 0,21 gam Methamphetamine, tổng khối lượng hai chất ma túy là 1,4 gam nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
… i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đếm điểm h khoản này”.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.
[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa pH, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, bản thân không được đi học, ở nhà lao động sản xuất, phụ giúp gia đình.
Năm 1997 kết hôn với chị Lò Thị H và có 02 người con, con lớn sinh năm 1998 con nhỏ sinh năm 2000.
Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2018 cho đến ngày bị bắt. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Ngày 19/6/2021 bị Tổ công tác Công an xã T N phối hợp với Đồn biên phòng Thanh Luông bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đ B ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.
Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự:
“5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của các bị cáo là làm ruộng, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS, số vật chứng đã thu giữ của bị cáo cần xử lý như sau: Đối với 1,19 gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,09 gam, vật chứng còn lại là 1,1 gam) và 0,21 gam Methamphetamine (đã trích 0,11 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,1 gam) là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Các vấn đề khác:
Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi, Bị cáo không biết tên, địa chỉ. Vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B, tỉnh Điện Biên không có cơ sở xác minh làm rõ được. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
Đối với người đàn ông chạy xe ôm đã chở Bị cáo đi mua ma túy và chở Bị cáo quay về, do Bị cáo không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B, tỉnh Điện Biên không có cơ sở xác minh làm rõ được. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
Đối với 01 viên nén màu xanh thu giữ của Bị cáo có khối lượng 0,1 gam. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B đã gửi toàn bộ đi giám định, không tìm thấy chất ma tuý và không hoàn lại mẫu. Vì vậy HĐXX không xem xét xử lý.
[7] Vê hanh vi , quyêt đinh tô tung cua cơ quan tiến hành tố tụng , người tiến hành tố tụng:
Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự , điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Về kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Cà Văn X phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt Bị cáo: 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (19/6/2021).
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
* Tịch thu tiêu hủy: 1,19 gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,09 gam, vật chứng còn lại là 1,1 gam) và 0,21 gam Methamphetamine (đã trích 0,11 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,1 gam) là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 272/2021/HS-ST ngày 20/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 272/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về