Bản án 27/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN 

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Giàng Là C, sinh năm 1961 tại huyện M, tỉnh Yên Bái.

Tên gọi khác: Giàng A R.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N 1, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Giàng Chờ V, đã chết; Con bà: Sùng Thị M, đã chết.

Bị cáo có vợ Lý Thị X, sinh năm 1974 và 04 con, con lớn nhất sinh năm 1987, con nhỏ nhất sinh năm 1996.

Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 22/6/2018, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành hình phạt đến ngày 17/3/2019 ra trại.

Tiền sự: Không Nhân thân: Bị cáo đã bị Tòa án xét xử chưa được xóa án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 25/12/2020, tạm giam ngày 27/12/2020, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 24/12/2020, bị cáo Giàng Là C đi bộ từ nhà ở bản Ngải Thầu 1, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên lên bản H, xã V, huyện N, tỉnh Điện Biên tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, bị cáo gặp một người phụ nữ dân tộc Thái bị cáo không rõ lai lịch và mua của người này 01 gói thuốc phiện, 11 viên ma túy tổng hợp cùng với 01 gói Heroine với tổng giá tiền là 2.000.000 đồng. Mua được ma túy, bị cáo cất và túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Hồi 23 giờ 20 phút cùng ngày, khi bị cáo đi đến khu vực bản N 3, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên thì bị cáo bị Đồn Biên phòng N phối hợp với Công an huyện N phát hiện bắt qủa tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Cáo trạng số 13/CT-VKS-NP ngày 30/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Giàng Là C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Tuyên phạt bị cáo Giàng Là C từ 32 đến 38 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng của vụ án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ phạm tội:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 23 giờ 30 phút ngày 24/12/2020 bút lục 01, 02 chứng minh bị cáo Giàng Là C bị bắt khi đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Đồn Biên phòng N đã thu giữ của bị cáo một gói ni lông màu trắng, mở bên trong có chứa các viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp. Một gói ni lông màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng nén màu trắng đục nghi là Heroine. Một gói ni lông màu bạc, bên trong có chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen có mùi hắc nghi là thuốc phiện Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 10 giờ 00 phút ngày 25/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N bút lục số 22, 23 khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Giàng Là C là 1,07 gam nghi là ma túy tổng hợp trích 0,2 gam gửi giám định. Khối lượng chất bột màu trắng đục 1,76 gam nghi là Heroine trích mẫu 0,1 gam gửi giám định. Khối lượng chất nhựa dẻo màu nâu đen nghi là thuốc phiện 33,58 gam trích mẫu 5,48 gam gửi giám định.

Kết luận giám định số 78/GĐ-PC09 ngày 03/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 28 đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng từ vật chứng thu giữ của Giàng Là C gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Mẫu chất bột màu trắng trong vật chứng thu giữ của Giàng Là C gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine. Mẫu chất dẻo màu nâu đen từ vật chứng thu giữ của Giàng Là C gửi giám định là chất ma túy, loại thuốc phiện.

Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, mục IIC danh mục II; Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, mục IA danh mục I Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ; Thuốc phiện nằm trong danh mục các chất ma túy STT: 47, mục ID danh mục I Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Giàng Là C có tội. Bị cáo đi mua ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp và đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Giàng Là C có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[2] Về tính chất mức độ phạm tội:

Khối lượng ma túy bị thu giữ của Giàng Là C là 2,83 gam (tổng khối lượng của Methamphetamine và Heroine) và 33,58 gam thuốc phiện. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 về việc tính tổng khối lượng các chất ma túy thì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Heroine, Methamphetamine và nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với từng chất được quy định tại khoản 2 của Điều 249 Bộ luật hình sự là 63,316% dưới 100%. Tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên ở huyện M, tỉnh Yên Bái. Năm 1993, bị cáo cùng gia đình chuyển về sinh sống tại bản N 1, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên. Bị cáo là người nghiện ma túy nhiều năm mà không từ bỏ được. Đây là nguyên nhân chính bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 22/6/2018, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành hình phạt đến ngày 17/3/2019 ra trại. Ngày 24/12/2020 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian chưa được xóa án tích của bản án trước. Lần xét xử này Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Nhận định trên đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Giàng Là C.

[8] Về vật chứng: Vật chứng 1,07 Methamphetamine trích 0,2 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 0,87 gam; 1,76 gam Heroine trích mẫu 0,1 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 1,66 gam; 33,58 gam nhựa thuốc phiện trích mẫu 5,48 gam gửi giám định, vật chứng còn lại 28,1 gam. Vật chứng còn lại tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ do vậy Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định tại Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

[11] Các vấn đề khác: Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một người phụ nữ dân tộc Thái không rõ lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có đủ cơ sở để làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Giàng Là C (tên gọi khác Giàng A R) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng Là C 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 25/12/2020.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 1,07 Methamphetamine trích 0,2 gam gửi giám định, còn lại 0,87 gam; 1,76 gam Heroine trích mẫu 0,1 gam gửi giám định, còn lại 1,66 gam; 33,58 gam nhựa thuốc phiện trích mẫu 5,48 gam gửi giám định, còn lại 28,1 gam. Vật chứng được đựng trong 01 phong bì niêm phong có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng hồi 16 giờ 00 phút ngày 30/3/2021 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Giàng Là C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 27/4/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về