Bản án 27/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 342/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Đình L, sinh năm 1993 tại tỉnh Bắc Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Phú Yên 3, xã Tam Dị, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang; Chỗ ở: Không có nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Lê Đình C; Mẹ: Lô Thị N; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 23-8-2020 (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 23-8-2020, tại trước nhà số 130 đường Hoàng Hoa Thám, Phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, lực lượng phòng chống tội phạm ma túy Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3- Bộ tư lệnh cảnh sát biển bắt quả tang Lê Đình L đang tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine), đồng thời thu giữ vật chứng của vụ án (các bút lục điều tra số 28,29).

Sau khi lập hồ sơ ban đầu, niêm phong vật chứng Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3 - Bộ tư lệnh cảnh sát biển đã chuyển hồ sơ, đối tượng cùng vật chứng của vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu để điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Lê Đình L khai nhận: L sử dụng ma túy từ năm 2019 đến nay. Số ma túy bị cơ quan chức năng thu giữ là của L mua của một thanh niên không rõ lai lịch tại khu vực bến xe Miền Đông, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000.000 đồng để sử dụng thì bị bắt quả tang (các bút lục điều tra từ số 60 đến số 74).

Lời khai của Lê Đình L phù hợp với chứng cứ thu thập được và phù hợp với lời khai của anh Nguyễn Văn Năm là người chứng kiến (bút lục điều tra số 80 - 81).

Tại Bản kết luận giám định số 406/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất kết tinh màu trắng chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín (mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an phường 2 - CATP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Thế Nam, Nguyễn Văn Năm, Lê Đình L, Lê Văn Hạ gửi đến giám định có tổng khối lượng 1,6339 gam là ma túy, loại Ketamine.

Tám viên nén màu vàng, hình tròn, viền răng cưa, có in nổi hình vương miện trên một bề mặt (mẫu A2), được niêm phong trong một phong bì màu trắng có hình dấu và chữ ký như trên mục 1, gửi đến giám định có tổng khối lượng 2,7978 gam là ma túy loại MDMA và Methamphetamine.

Hai viên nén màu vàng, hình tròn, có viền răng cưa được niêm phong trong cùng phong bì nêu trên, gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,5943 gam, là ma túy loại MDMA và Methamphetamine.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng đã tiến hành thu giữ vật chứng và các tài sản gồm:

- 01 gói ny lon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 10 viên nén vàng hình ngôi sao 10 cánh trong đó có 08 viên có in nổi logo hình vương miện và 02 viên không có in logo.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imeil: 353297071078302.

- 01 xe mô tô hiệu Wave màu đỏ đen, BKS 59F1-268.25, số máy: JC43E- 6457002, số khung: HJC 4328BY 498761. Qua điều tra, xác định chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1993; HKTT: tổ 3, ấp Tân Lộc, xã Phước Hòa, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Chị Hà không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của L nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vũng Tàu đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe cho chị Hà.

Tất cả số vật chứng còn lại được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 06/CT-VKSTPVT ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Lê Đình L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Lê Đình L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Đình L từ 4 (bốn) năm đến 4 (bốn) năm 6 (sáu) tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động vì không liên quan đến hành vi phạm tội; Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc làm ổn định, không có thu nhập nên đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Lê Đình L đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đình L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 23-8-2020, trước nhà số 130 Hoàng Hoa Thám, Phường 2, thành phố Vũng Tàu, Lê Đình L đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,3921 gam ma túy loại MDMA và Methamphetamin và 1,6339 gam ma túy loại Ketamine. Số ma túy này, Luyện tàng trữ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Do số ma túy thu giữ của L có nhiều loại và đều có khối lượng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02-02-2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ của Luyện được xác định như sau: tỷ lệ phần trăm về khối lượng của MDMA, Methamphetamin so với mức tối thiểu đối với MDMA, Methamphetamin được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là 67,84%; tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Ketamine (chất ma túy khác ở thể rắn) so với mức tối thiểu quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là 8,16% nên tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy là 76%. Vì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy thu giữ của L so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là dưới 100% nên tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ của L thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Lê Đình L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với người thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) là những người bán ma túy cho L do chưa xác định được lai lịch nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội;

đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội; bản thân bị cáo vào năm 2012 đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân, nhưng nay bị cáo vẫn tiếp tục phạm tội là thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không xác định được thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Lê Đình L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Đình L 4 (bốn) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 23 tháng 8 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) gói niêm phong số 406/1 và 406/2 ngày 27-8- 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imel 353297071078302.

Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 58/BB.THA ngày 29 tháng 12 năm 2020.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về