Bản án 27/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2021/TLST-HS, ngày 06 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thái S, sinh ngày 10/6/2004 tại tỉnh Bình Thuận;

Nơi cư trú: Tổ 8, khu phố A, thị trấn ĐT, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

Nghề nghiệp: Học sinh; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thái Q, sinh năm 1972 và bà Huỳnh Thị Phương A, sinh năm 1974; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con út trong gia đình; chưa có vợ, con.

Tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 10/2021/HSST-LCCT ngày 07/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Văn Thị M- Là Luật sư- Văn phòng Luật sư Văn Thị M thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận (Có mặt).

Nơi cư trú: Khu phố C, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Nguyễn Thái Q, sinh năm 1972 và bà Huỳnh Thị Phương A, sinh năm 1974 (Có mặt).

Nơi cư trú: Tổ 8, khu phố A, thị trấn ĐT, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

- Đại diện Trường Trung học phổ thông HV nơi bị cáo học tập (Vắng mặt- Có giấy xác nhận đề ngày 14/6/2021).

1 Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn ĐT, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

- Những người làm chứng:

+ Ông Lê Dương L, sinh năm 1999 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn 2, xã NC, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

+ Ông Nguyễn Mậu K, sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn ĐT, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 30/12/2020, Công an thị trấn ĐT, huyện Đ tiến hành kiểm tra phòng số 01 quán Karaoke 268 thuộc khu phố B, thị trấn ĐT, huyện Đ. Tại phòng số 01 có Nguyễn Thái S, sinh ngày 10/6/2004 trú tại khu phố A, thị trấn ĐT, huyện Đ và Lê Dương L, sinh năm 1999 trú tại thôn 2, xã NC, huyện Đ. Qua kiểm tra tại thùng loa súp trong phòng số 01, cơ quan Công an phát hiện, thu giữ một đoạn giấy vệ sinh màu trắng giấu bên hông thùng loa, bên trong đoạn giấy vệ sinh có 01 bịch nilon kích thước (4,5 x 4,3)cm và 01 bịch nilon kích thước (4 x 3)cm được hàn kín, bên trong có chứa chất màu trắng và 02 viên nén màu xám. Qua làm việc Nguyễn Thái S đã khai nhận đó là ma túy của S. S khai đem số ma túy này đến phòng số 01 quán Karaoke 268 để bán cho một người tên Q1 ở xã NC, huyện Đ. Trong lúc đang chờ Q1 để giao dịch mua bán ma túy thì bị cơ quan Công an khám xét thu giữ.

Vật chứng thu giữ: Bên cạnh việc thu giữ 01 đoạn giấy vệ sinh có 01 bịch nilon kích thước (4,5 x 4,3)cm và 01 bịch nilon kích thước (4 x 3)cm được hàn kín, bên trong có chứa chất màu trắng và 02 viên nén màu xám. Công an thị trấn ĐT còn thu giữ 01 điện thoại Iphone màu vàng và 01 xe máy Honda hiệu Air Black màu trắng, biển kiểm soát: 86B8- 291.37.

Tại kết luận giám định số 04/KLGĐ-PC09 ngày 08/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 2,4015 gam là Ketamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,7639 gam là MDMA.

Quá trình điều tra Nguyễn Thái S khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 30/12/2020, một người thanh niên tên Q1 (không rõ họ tên, địa chỉ) ở xã NC, huyện Đ qua messenger Facbook gọi điện đến Nguyễn Thái S nói là “lấy cho Q1 hộp 05 và 02 con kẹo”. S biết là hộp 05 và 02 con kẹo là ma túy nên đồng ý. S điện thoại cho một người phụ nữ tên N ở xã TH, huyện Đ (không rõ họ tên, địa chỉ) để lấy hộp 05 và 02 con kẹo thì N đồng ý. S mượn xe mô tô biển kiểm soát 86B8- 291.37 của Phùng Ngọc S sinh ngày 15/11/2003, trú tại khu phố A, thị trấn ĐT, huyện Đ và nói đi công việc thì S đồng ý. S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86B8- 291.37 đến gần nhà nghỉ Uyên Nhi thuộc xã TH gặp N và nhận từ N một đoạn giấy vệ sinh màu trắng, bên trong có 01 bịch nilon kích thước (4,5 x 4,3)cm và 01 bịch nilon kích thước (4 x 3)cm được hàn kín, bên trong có chứa chất màu trắng và 02 viên nén màu xám. Sau khi nhận được ma túy, S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 86B8- 291.37 đến phòng số 01 quán Karaoke 268 để giao cho Q1. Khi vào phòng chỉ có S và L, còn Q1 thì đang nghe điện thoại bên ngoài. S lấy ma túy mang theo dấu vào bên hông thùng loa súp để bên dưới ti vi và lại ghế ngồi. Sau đó, bị Công an thị trấn ĐT kiểm tra và lập biên bản thu giữ.

Phùng Ngọc S khai nhận: 01 xe mô tô hiệu Air Black, màu trắng, biển kiểm soát 86B8- 291.37 là của ông. Xe này là của chị ruột ông tên Phùng Thị Ngọc Q2, sinh năm 1995, trú tại khu phố A, thị trấn ĐT cho ông để sử dụng. Việc Nguyn Thái S mượn xe để đi mua ma túy thì ông không biết.

Phùng Thị Ngọc Q2 khai nhận: Bà là chị ruột của Phùng Ngọc S. Xe mô tô hiệu Hon da Air Black, màu trắng bạc đen, biển kiểm soát 86B8- 291.37 là của bà. Bà mua xe này vào năm 2016, sau đó bà có chồng nên bà có cho lại em trai tên S để sử dụng đi lại. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 86B8- 291.37 cho bà Q2.

Tại Cáo trạng số 28/CT-VKSĐL-HS ngày 04/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh đã truy tố Nguyễn Thái S có lý lịch nêu trên ra trước Tòa án nhân dân huyện Đức Linh để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thái S được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tôi lần đầu; khi phạm tội đang trong tuổi vị thành niên nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Chương XII của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên nội dung truy tố trong Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Thái S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Chương XII của Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái S từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù giam. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Đồng ý nội dung phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất, cho bị cáo được hưởng án treo do bị cáo khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, bị bạn bè rủ rê. Bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu; sự phát triển tâm sinh lý chưa hoàn thiện.

Bị cáo Nguyễn Thái S thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến gì về kết luận giám định. Việc bị cáo phạm tội không có ai xúi giục.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến gì về nội dung Cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận. Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận ra sai lầm và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định:

[1.1] Về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy: Khong 22 giờ ngày 30/12/2020, Công an thị trấn ĐT, huyện Đ tiến hành kiểm tra và bắt quả tang Nguyễn Thái S đang tàng trữ trái phép 2,4015 gam Ketamine và 0,7639 gam MDMA tại phòng số 01 quán Karaoke 268 thuộc khu phố B, thị trấn ĐT, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận. Mặc dù, bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là để nhằm mục đích mua bán, nhưng qua điều tra không có cơ sở để xác định bị cáo có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không có căn cứ xử lý bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy.

[1.2] Bị cáo là người có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân. Khi thực hiện hành vi phạm tội (ngày 30/12/2020) bị cáo S mới 16 tuổi 06 tháng 20 ngày, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Nhưng do ham muốn cá nhân nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do đó, hành vi tàng trữ 2,4015 gam Ketamine và 0,7639 gam MDMA của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ.

[1.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, khi phạm tội là người dưới 18 tuổi nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Chương XII của Bộ luật hình sự.

[2] Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện. Về ý kiến của người bào chữa cho bị cáo đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo. Thấy rằng tình hình tội phạm liên quan đến ma túy trong cả nước nói chung và địa bàn huyện Đức Linh nói riêng đang diễn biến hết sức phức tạp, do đó để tăng cường công tác phòng, chống tội phạm liên quan đến ma túy nên cần xét xử nghiêm mới đủ đức răn đe, đấu tranh, phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người dưới 18 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh đã tiến hành xác minh và trả lại cho chủ sở hữu 01 xe máy hiệu Air Black, màu trắng, biển kiểm soát 86B8- 291.37 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 đoạn giấy vệ sinh màu trắng, kích thước (31 x 9,5)cm không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Gói nilon 2,2364 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 04/1 và 0,6238 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 04/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bình Thuận là chất cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, qua điều tra không có cơ sở xác định Nguyễn Thái S có hành vi mua bán ma túy nên cần trả lại cho bị cáo. Nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Đối với hành vi của người tên Q1, qua xác minh, Công an xã NC xác định trên địa bàn xã NC không có ai tên Q1 thuộc diện quản lý của địa phương có liên quan đến ma túy. Do đó, không có cơ sở để Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh tiến hành điều tra, xác minh làm rõ theo quy định của pháp luật.

[6] Theo lời khai của Nguyễn Thái S xác định người phụ nữ tên là N, nhà ở gn nhà nghỉ UN thuộc thôn 4, xã TH, huyện Đ. Qua xác minh, Cơ quan Cảnh sát điu tra Công an huyện Đức Linh xác định tại thôn 4, xã TH, huyện Đ có một ngưi tên Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1992. Tuy nhiên, Nguyễn Thị Thanh N kng có mặt tại địa phương, bà N làm gì và ở đâu thì địa phương không xác định được. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Linh không có cơ sở xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên N để làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là phù hợp.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và Chương XII của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thái S 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn giấy vệ sinh màu trắng, kích thước (31 x 9,5)cm do không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy gói nilon 2,2364 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 04/1 và 0,6238 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 04/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bình Thuận là chất cấm tàng trữ.

- Trả lại cho Nguyễn Thái S 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/5/2021).

3/ Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Thái S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (15/6/2021) để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về