Bản án 27/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĐ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐ-ST ngày 20 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Ch. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1977 tại huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm QT, xã TPC, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Quý (đã chết) và bà Lê Thị Nhung, sinh năm 1936; Vợ: Hồ Thị Thu Hằng (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 28/4/1998, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xử phạt 03 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản của công dân”; Ngày 20/5/1998, bị Công an huyện NĐ xử phạt hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”; Ngày 20/01/2005, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xử phạt 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”; Ngày 29/9/2009, bị Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong vào ngày 28/7/2011; Ngày 10/8/2012, bị UBND huyện NĐ ra quyết định xử phạt cai nghiện bắt buộc, thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong vào ngày 09/7/2013; Ngày 07/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án vào ngày 04/02/2016; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2021 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Trọng T. Sinh năm 1974. Nơi cư trú: Xóm QT, xã TPC, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn H. Sinh năm 1982. Nơi cư trú: Xóm Vũng Chùa, xã TPC, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Trọng D. Sinh năm 1976. Nơi cư trú: Xóm 8, xã Khánh Sơn, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

4. Anh Trần Văn H. Sinh năm 1993. Nơi cư trú: Xóm 11, xã Khánh Sơn, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 18/01/2021 tại xóm Tân Hoa, xã TPC, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Văn Ch bị Công an huyện NĐ phát hiện bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ cất dấu 01 gói ni lông màu trắng bên trong chứa ma túy (methamphetamine) trong túi áo khoác của mình. Ngoài ra, thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamama, loại xe Gravita, biển kiểm soát 37M1-3151 của Nguyễn Văn Ch mượn của anh Nguyễn Văn H. Về nguồn gốc ma túy trên Chiến khai trước đó cùng nhau sử dụng ma túy với anh Trần Văn H và trước khi về có xin một ít mang về sử dụng. Tuy nhiên quá trình điều tra và chuẩn bị xét xử thì anh Hiếu không thừa nhận nội dung lời khai trên.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào ngày 18/01/2021 đã xác định: Số chất rắn tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Ch có khối lượng sau khi đã loại bỏ bao bì là 0,18 g (Không phẩy mười tám gam). Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ khối lượng 0,18 gam để phục vụ công tác giám định.

Tại bản kết luận giám định số 232/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 22/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất rắn tinh thể màu trắng (M1) thu giữ của Nguyễn Văn Ch gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Chất rắn màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Ch có khối lượng 0,18 gam.

Cáo trạng số 28/CT-VKSNĐ ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Văn Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt mức án từ 18 đến 24 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) bì thư được niêm phong đúng quy định: Bên trong đựng túi ni lông cùng bì thư niêm phong ban đầu bằng cách cho vào phong bì thư, dán kín các mép bằng giấy niêm phong và có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Ch đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết sai phạm của mình. Mong Hội đồng xét xử xử mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm về với gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (đã có đơn xét xử vắng mặt). Tuy nhiên việc vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Ch đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 18/01/2021, tại khu vực xóm Tân Hoa, xã TPC, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Ch là người có đầy đủ năng lực hành vi để nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng nên đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) với khối lượng là 0,18 gam (không phẩy mười tám) thì bị Công an huyện NĐ phát hiện và bắt quả tang. Với hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Không những làm mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc sống và làm gia tăng tệ nạn xã hội và các loại tội phạm. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử nhiều lần tuy đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do đó, cần lên một mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo riêng bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có bố mẹ có thời gian tham gia phục vụ dân công hỏa tuyến. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, gia đình thuộc diện hộ cận nghèo nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 (Một) bì thư được niêm phong đúng quy định: Bên trong đựng túi ni lông cùng bì thư niêm phong ban đầu bằng cách cho vào phong bì thư, dán kín các mép bằng giấy niêm phong và có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong. Đây là vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Gravita, biển kiểm soát 37M1-3151 của chủ sở hữu theo giấy đăng ký xe là anh Nguyễn Trọng T nhưng đã giao lại cho anh Nguyễn Văn H quản lý, sử dụng. Khi bị cáo Chiến mượn đi thực hiện hành vi phạm tội thì cả anh Tường và anh Hòa đều không biết nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự. Chiếc xe đã trả lại cho chủ sở hữu và không có yêu cầu, ý kiến gì nên không xem xét.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo Chiến khai số ma túy trên đã xin từ anh Trần Văn H sau khi cả hai sử dụng chung ma túy tại nhà anh Nguyễn Trọng D. Tuy nhiên quá trình điều tra chưa chứng minh được số ma túy trên là xin từ anh Hiếu, anh Dũng chủ nhà cũng không biết nội dung trên nên chưa có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự anh Hiếu và anh Dũng. Cơ quan điều tra sẽ điều tra làm rõ và xử lý sau là phù hợp, đúng quy định.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ch: 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) bì thư được niêm phong đúng quy định: Bên trong đựng túi ni lông cùng bì thư niêm phong ban đầu bằng cách cho vào phong bì thư, dán kín các mép bằng giấy niêm phong và có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

(Đặc điểm, tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NĐ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện NĐ tỉnh Nghệ An).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Ch phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn Ch có quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về