Bản án 27/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2020/HSST ngày 21 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HS ngày 05/8/2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Triệu Khánh T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1973, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản S, xã S, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Triệu Trọng T (đã chết) và con bà Phan Thị C (sinh năm 1937); Vợ: Phùng Thị K (sinh năm 1975, đã ly hôn), con: Có 01 con sinh năm 1996; Tiền án: 02 tiền án theo bản án số 22/2015/HSST ngày 19/7/2015 bị cáo bị TAND huyện Tam Đường xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 28/3/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương; Đến ngày 29/5/2018 bị cáo bị TAND thành phố xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo bản án số 30/2018/HS-ST bị cáo chưa được xóa án tích nên bản án đã áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo T 18 tháng tù. Ngày 26/6/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt, đến lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/3/2020 đến ngày 26/3/2020 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khong 09 giờ ngày 17/3/2020 khi Hà Huy Th đến nhà Triệu Khánh T chơi, T rủ Thđi lên thị trấn Sìn Hồ, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu mua ma túy để sử dụng. Th đồng ý, sau đó cả hai cùng đi bằng xe máy của T lên thị trấn Sìn Hồ, huyện Sìn Hồ. Do không quen biết ai nên tại Sìn Hồ T không mua được ma túy. Khoảng 16 giờ cùng ngày , T và Th quay về thành phố, trên đường về có gặp 01 người đàn ông dân tộc Dao, T dừng lại hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy. Người đàn ông dân tộc Dao đồng ý, cầm tiền đi rồi khoảng 20 phút rồi quay lại để xuống dưới đất cạnh chỗ T 01 gói ma túy được gói bên ngoài bằng túi nilon màu xanh, bên trong là chất bột khô màu trắng, rồi đi luôn. T cất gói ma túy vào trong gói nilon màu trắng cùng với gói giấy được gói bên ngoài bằng tờ giấy lịch, bên trong là 01 viên hồng phiến mà T cất giấu trong người từ trước. Sau đó T cất toàn bộ số ma túy đó vào túi áo khoác bên trái đang mặc và đi cùng Th về thành phố Lai Châu.

Khong 19 giờ cùng ngày, khi T và Th đi đến km 09 tỉnh lộ 129 thuộc bản Gia Khâu 1, xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu thì bị tổ công tác của Công an thành phố Lai Châu yêu cầu kiểm tra, Toàn đã tự giác giao nộp gói ma túy cất trong túi áo khác cho Cơ quan điều tra.

Về nguồn gốc 01 viên hồng phiến T khai nhận: Vào khoảng 09 giờ sáng ngày 15/3/2020 tại chợ San Thàng, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, T có gặp 01 người dân tộc Mông (T không biết tên tuổi địa chỉ) hỏi mua 02 viên hồng phiến với giá 100.000đồng, T đã sử dụng 01 viên còn 01 viên.

Ngày 17/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu thành lập Hội đồng tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng đối với vật chứng thu của T: 01 viên nén màu hồng có khối lượng 0,08 gam và chất bột khô màu trắng có khối lượng 0,92 gam. Theo kết luận giám định số 135/GĐ-KTHS ngày 26/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu: 01 mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine và 01 mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy loại Heroine.

Quá trình điều tra Triệu Khánh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án:

Theo lời khai của Triệu Khánh T, nguồn gốc Methamphetamine và Heroine mà T tàng trữ là do T mua của hai người đàn ông dân tộc Mông T không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ được là ai.

Cũng theo lời khai T, ngày 17/3/2020 Hà Huy Th có góp chung với T tiền để mua 0,92gam Heroine để sử dụng. Kết quả điều tra xác định ngày 17/3/2020 Th thừa nhận có đi cùng T lên thị trấn Sìn Hồ, nhưng không thừa nhận việc cùng góp tiền với T để mua ma túy, cũng không biết việc T tàng trữ ma túy trong người. Ngoài lời khai của T, không có chứng cứ khác vì vậy không đủ căn cứ để xử lý Th là đồng phạm với T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bản cáo trạng số 30/CT - VKSTP ngày 20/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Triệu Khánh Toàn về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Triệu Khánh T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/3/2020; Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo; Xử lý vật chứng:

đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy lịch), 01 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng và 01 mảnh nilon màu xanh.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe máy Yamaha, Sirius màu sơn trắng đen, BKS: 25 F4-8844, số máy 5C63249189, số khung: RLCS5C6309Y249189, xe đã qua sử dụng kèm theo giấy đăng ký mô tô, xe máy, mang tên Lò Văn Sun, biển đăng ký số 25 F4-8844, màu sơn trắng đen.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Triệu Khánh T không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Triệu Khánh T thể hiện việc nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 17/3/2020 tại km 09 tỉnh lộ 129 thuộc bản Gia Khâu 1, xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Triệu Khánh T đang tàng trữ 0,08 gam Methamphetamine và 0,92 gam Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an thành phố Lai Châu yêu cầu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Tổng khối lượng ma túy mà T tàng trữ là 01gam.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Triệu Khánh T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Xét trước lần phạm tội này bị cáo đã bị áp dụng tình tiết “tái phạm” (điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999) tại bản án số 30/2018/HS-ST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, bị cáo bị xử phạt 18 tháng tù.

Ngày 26/6/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, tính đến lần phạm tội này chưa được xóa án tích mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó hành vi phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Triệu Khánh T cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điểm o, khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:… o,Tái phạm nguy hiểm.

Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân xấu. Trước lần phạm tội này bị cáo đã 05 lần bị Tòa án xét xử và đều phải đi chấp hành án, chịu sự giáo dục, cải tạo nghiêm khắc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, bị cáo có mẹ là Phan Thị Ch được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị để đảm bảo thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy lịch), 01 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng và 01 mảnh nilon màu xanh, là công cụ gói ma túy và là vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Đối với 01 xe máy Yamaha, Sirius màu sơn trắng đen, BKS: 25 F4-8844, số máy 5C63249189, số khung: RLCS5C6309Y249189, xe đã qua sử dụng và giấy đăng ký mô tô, xe máy, mang tên Lò Văn Sun, biển đăng ký số 25 F4-8844, màu sơn trắng đen là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, hóa giá, sung vào ngân sách nhà nước theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Triệu Khánh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Triệu Khánh T 05 (Năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/3/2020.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy lịch), 01 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng và 01 mảnh nilon màu xanh.

- Tịch thu, hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe máy Yamaha, Sirius màu sơn trắng đen, BKS: 25 F4-8844, số máy 5C63249189, số khung: RLCS5C6309Y249189, xe đã qua sử dụng, kèm Giấy đăng ký mô tô, xe máy, mang tên Lò Văn Sun, biển đăng ký số 25 F4-8844, màu sơn trắng đen.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 21/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về