Bản án 27/2020/DSST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 27/2020/DSST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 24/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 73/2020/TLST- DS ngày 23 tháng 6 năm 2020, về “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐXX-ST ngày 20/8/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TNHH M Địa chỉ: Tầng 38, tòa nhà Keangnam Landmark 72, E6 P, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Ông Shin Dong M- Tổng giám đốc Đại diện theo ủy quyền: Ông You Young W – Giám đốc Phòng thu hồi nợ - Ngân hàng Shinhan Việt Nam Ủy quyền lại cho ông Nguyễn Huy D – Cán bộ ngân hàng – có mặt

Bị đơn: Ông Ma Trung D, Sinh năm 1984 Địa chỉ: Tổ 4 (nay là tổ 2), phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

(Ông D vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa Ngân hàng TNHH M trình bày:

Ông Ma Trung D vay vốn tại Ngân hàng theo Đơn đăng ký khoản vay tín chấp ngày 06/03/2019:

Số tiền vay 100.000.000đ (một trăm triệu đồng);

Mục đích vay: Để tiêu dùng cá nhân; Thời hạn vay: 37 tháng Lãi suất: 16,5% / năm Phương thức trả nợ: Gốc, lãi trả hàng tháng Ngày 6/3/2019 Ngân hàng đã giải ngân số tiền 100.000.000đ cho ông Ma Trung D.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng ông D không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cam kết với ngân hàng, vi phạm các nội dung thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng nên toàn bộ khoản vay trên đã bị chuyển nợ quá hạn từ ngày 17/6/2019.

Sau khi phát sinh nợ quá hạn, Ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện cho ông Ma Trung D thực hiện nghĩa vụ trả nợ, quá trình làm việc để xác định phương án trả nợ cho ngân hàng gặp khó khăn do ông D không hợp tác khách hàng thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Việc làm trên của ông Ma Trung D đã gây ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng TNHH M.

Trên cở sở những nội dung đã trình bày trên, Ngân hàng đề nghị Tòa án Buộc ông Ma Trung D phải trả Ngân hàng TNHH M sồ tiền tạm tính đến ngày 24/9/2020 tổng cộng 127.815.915 đồng. Trong đó nợ gốc là 96.210.451 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.661.891 đồng, Lãi chậm trả là 28.943.573đồng. Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi, lãi phạt theo Hợp đồng tín dụng và theo quy định của pháp luật cho đến ngày ông Ma Trung D thanh toán toàn bộ khoản vay.

Đối với bị đơn ông Ma Trung D: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành giao nhận, niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác cho ông D nhưng ông D không đến Tòa tham gia tố tụng, không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ vào Điều 227, 228 của BLTTDS xét xử vắng mặt bị đơn là đúng.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết 04/2017/HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng TNHH M khởi kiện ông Ma Trung D phải trả nợ tiền với mục đích chi trả tiêu dùng cá nhận nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS. Khi tranh chấp bị đơn ông Ma Trung D có nơi cư trú tại tổ 2, phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về sự vắng mặt của Bị đơn: Ông Ma Trung D vắng mặt tại địa chỉ khi ký kết khoản vay tín chấp ngày 06/3/2019 với Ngân hàng TNHH M là phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Theo quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì: người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Ma Trung D.

[3]. Về nội dung tranh chấp Hội đồng xét xử nhận xét:

Tại Đơn đăng ký khoản vay tín chấp ngày 6/03/2019:

Số tiền vay là: 100.000.000 đồng (bằng chữ: một trăm triệu đồng).

Mục đích vay: Để tiêu dùng cá nhân; Thời hạn vay: 37 tháng Lãi suất: 16,5% / năm Phương thức trả nợ: Gốc, lãi trả hàng tháng Loại hình cho vay: Tín chấp Ngày 06/3/2019 Ngân hàng TNHH M đã ký văn bản với ông Ma Trung D đồng ý và cam đoan sử dụng khoản vay đúng mục đích và tuân thủ các điều kiện nêu trong Hợp đồng tín dụng và ông D đã nhận đủ số tiền vay.

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng trên, ông Ma Trung D đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi cho ngân hàng nên toàn bộ khoản vay trên bị chuyển nợ quá hạn từ ngày 17/6/2019.

Tính đến ngày 24/9/2020, tổng cộng số tiền ông D phải thanh toán cho ngân hàng là 127.815.915 đồng. Trong đó nợ gốc là 96.210.451 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.661.891 đồng, Lãi chậm trả là 28.943.573đồng.

Sau khi phát sinh nợ quá hạn, ngân hàng đã nhiều lần đôn đốc, tạo điều kiện cho ông Ma Trung D thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, quá trình làm việc để xác định phương án trả nợ cho ngân hàng gặp khó khăn do khách hàng không có mặt tại địa phương. Việc làm trên của ông Ma Trung D đã gây ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng TNHH MTV shinhan. [3] Quá trình tố tụng, Tòa án đã thông báo cho cho bị đơn biết về việc khởi kiện của nguyên đơn, tuy nhiên ông Ma Trung D không đến tham gia hòa giải, không có văn bản phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như không cung cấp chứng cứ chứng minh đã trả 01 phần hay toàn bộ số tiền đã vay của nguyên đơn.

[4] Xét tính hợp pháp của hợp đồng: Người ký kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 117 của Bộ luật của BLDS năm 2015. Điều 17 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (QĐ số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).

Về hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự; về nội dung của hợp đồng: Các điều khoản của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên phát sinh hiệu lực đối với các bên về quyền, nghĩa vụ và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết.

[5] Về việc thực hiện hợp đồng của các bên: Hội đồng xét xử thấy rằng, sau khi các bên ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã thực hiện việc giải ngân số tiền 100.000.000đồng cho ông D. Hai bên không có thắc mắc gì về các nội dung và điều khoản của Hợp đồng cũng như việc giải ngân số tiền vay. Ông D đã trả cho ngân hàng số tiền gốc là 3.789.549 đồng, sau đó đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình, vi phạm hợp đồng. Vì vậy, ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông D trả nợ gốc và lãi phát sinh là có căn cứ và đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

Nguyên đơn giao nộp căn cứ chứng minh là Bảng tính lãi theo lịch trình trả nợ tại hợp đồng tín dụng đã ký kết của Bị đơn tính từ thời điểm giải ngân.

Xét các chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp phù hợp với trình bày của người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn nên căn cứ Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 và Quy chế cho vay của tố chức tín dụng đối với khách hàng cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Ma Trung D phải thanh toán cho Ngân hàng Shinhan số tiền gốc là 96.210.451 đồng tiền gốc, nợ lãi trong hạn là 2.661.891 đồng, Lãi chậm trả là 28.943.573đồng. Tổng là 127.815.915 đồng là có căn cứ.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Ông Ma Trung D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước. Hoàn trả lại cho Ngân hàng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357; Điều 463, 464; Điều 466, Điều 468, Điều 470 Bộ luật dân sự 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết 04/2017/HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TNHH M về khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng đối với ông Ma Trung D.

Buộc ông Ma Trung D có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TNHH M số tiền tính đến ngày 24/9/2020, tổng cộng 127.815.915 đồng (một trăm hai mươi bảy triệu tám trăm mười lăm nghìn chín trăm mười lăm đồng). Trong đó nợ gốc là 96.210.451 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.661.891 đồng, Lãi chậm trả là 28.943.573đồng.

Buộc ông Ma Trung D còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh đối với khoản nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày 25/9/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ trên.

2. Về án phí: Ông Ma Trung D phải nộp 6.390.000 đồng (sáu triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước;

Hoàn trả Ngân hàng TNHH M 2.958.000 đồng (hai triệu chín trăm năm mươi tám nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, theo biên lai số 0003163 ngày 23/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên;

3. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày: Ngân hàng TNHH M được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày tuyên án; Ông Ma Trung D được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự. Người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/DSST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:27/2020/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về