Bản án 27/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

27/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 599/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

V V D sinh ngày: 24 tháng 12 năm 1984 tại: Xã Y L, huyện Y Y, tỉnh N Đ; Nơi cư trú: Thôn H T, xã Y L, huyện Y Y, tỉnh N Đ; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông V V M và bà V T D; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/7/2019 cho đến ngày 30/7/2019 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 10 giờ 35 phút, ngày 24/7/2019, tại Nhà kiểm soát liên ngành Cửa khẩu quốc tế C L, xã D H, huyện M H, tỉnh Quảng Bình, Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế C L phối hợp với Phòng phòng chống ma túy và tội phạm tiến hành kiểm tra phương tiện biển kiểm soát 12C – 032.. kéo theo rơ móoc biển kiểm soát 12R – 003.. chở hoa quả cho công ty TNHH MTV B V, L S do V V D điều khiển. Phát hiện trong giỏ nhựa đựng bàn chải và kem đánh răng trên ca bin xe có 01 (một) viên nén dạng thuốc tân dược màu hồng, trên mặt có in chữ “WY” và trên sàn ca bin xe có 01 (một) viên nén dạng thuốc tân dược màu hồng đã bị dập nát thành nhiều mảnh vụn, V V D khai nhận 02 (hai) viên nén màu hồng trên là ma túy do D mua và vận chuyển từ nước Cộng hòa DCND Lào đi qua Cửa khẩu quốc tế C L về Việt Nam để sử dụng. Lực lượng chức năng đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ toàn bộ tang vật để xử lý.

Quá trình điều tra, V V D khai nhận: Ngày 23/7/2019, tại khu vực chợ huyện N M L, tỉnh K M, nước Lào, D mua 07 (bảy) viên ma túy tổng hợp với giá 100.000 kíp Lào (khoảng 270.000 đồng Việt Nam) của một người đàn ông nói tiếng Lào (D không biết tên, địa chỉ của người đó), D đã sử dụng hết 06 (sáu) viên, 01 (một) viên nén còn lại D cất giấu trong giỏ nhựa đựng bàn chải và kem đánh răng trên ca bin xe vận chuyển về Việt Nam để sử dụng; 01 (một) viên nén bị dập nát dưới sàn ca bin xe cũng là ma túy dạng tổng hợp, trong lần sử dụng trước D làm rơi và dẫm đạp lên nên bị nát.

Tại Bản kết luận giám định số 657/GĐ-PC 09 ngày 26/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận:

- Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,147g (không phẩy một trăm bốn mươi bảy gam).

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa tạm giữ:

- Số ma túy sau giám định bỏ vào 01 (một) bì thư dán kín, ghi "657/GĐ- PC09" "Mẫu ký hiệu A" được niêm phong bằng các chữ ký của ông L Đ B, N N S, T N T, Đ X B và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình;

- 01 (một) giấy thông hành số H 0642410 do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 04/10/2018 mang tên V V D;

- 01 (một) căn cước công dân số 036084007301 do Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày 06/07/2017 mang tên V V D;

- 01 (một) giấy phép lái xe số 010142030986 do Sở giao thông vận tải Hải Phòng cấp ngày 03/12/2015 mang tên V V D;

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu OPPO (không rõ chất lượng bên trong), số IMEI 1: 8663760424400.. và IMEL 2: 8663760424400..; bên trong khe chứa sim 1 có chứa 01 sim hiệu Unitel số seri: 89457030021232127.., khe chứa sim 2 có 01 sim hiệu Viettel số seri: 89840480000324648...

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu NOKIA (không rõ chất lượng bên trong), IMEl: 3590020997035..; bên trong khe chứa sim 1 có chứa 01 sim Viettel số seri: 89840480000031609...

- 01 (một) phương tiện đầu kéo biển kiểm soát 12C – 032..: số máy 793835.., số khung 3HSCUAPR6AN2350.., nhãn hiệu INTERNATIONNAL;

- 01 (một) quyển giấy phép liên vận Việt – Lào số 793/LS-2018 của phương tiện đầu kéo biển kiểm soát 12C – 032..;

- 01 (một) phương tiện rơ móoc biển kiểm soát 12R – 003..: số khung Lzlb53ge5f00009.., nhãn hiệu CMIC;

- 01 (một) giấy phép liên vận Việt – Lào số 816/LS – 2018 của phương tiện rơ móoc biển kiểm soát 12R – 003...

Cáo trạng số 25/CT-VKSMH ngày 11/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố bị cáo V V D về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm e, khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên toà; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Minh Hóa, Viện kiểm sát huyện Minh Hóa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2] Hành vi của bị cáo: Lúc 10 giờ 35 phút ngày 24/7/2019 tại Nhà kiểm soát liên ngành Cửa khẩu quốc tế C L thuộc xã D H, huyện M H, tỉnh Quảng Bình, V V D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,147g chất ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng.

Tại phiên toà Kiểm sát viên khẳng định cáo trạng số 25/CT-VKSMH ngày 11/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố bị cáo V V D về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm e, khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là không chính xác, không đúng với bản chất nội dung vụ việc bởi mục đích của bị cáo là cất giấu ma túy để sử dụng.

Vì vậy Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo V V D từ 12 tháng đến 18 tháng tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa bị cáo V V D đã thừa nhận hành vi phạm tội là có mua 07 viên ma túy tổng hợp để sử dụng và đã sử dụng hết 05 viên ma túy, 01 viên rơi dưới sàn bị giẫm nát và cất giữ 01 viên ma túy còn lại trong giỏ nhựa đựng bàn chải và kem đánh răng ở cabin xe để sử dụng. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ đã được kiểm tra tại phiên tòa. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa đưa ra quan điểm xét xử vụ án là có căn cứ nên chấp nhận. Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo V V D cất giấu 01 viên nén màu hồng trong giỏ đựng bàn chải đánh răng và 01 viên nén màu hồng bị rơi và dẫm nát ở sàn xe, như vậy hành vi này của bị cáo là phù hợp với tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó Hội đồng xét xử kết luận bị cáo V V D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 chứ bị cáo V V D không phải phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm e, khoản 2 điều 250 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xét tính chất hành vi, hậu quả do bị cáo gây ra vụ án cho thấy: Đây là hành vi phạm tội có tính chất táo bạo và liều lĩnh, hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật. Vấn đề ma tuý là một tệ nạn nhức nhối trong xã hội, nó gây ra hậu quả với tác hại rất lớn, làm suy đồi đạo đức, nhân cách con người. Vì vậy hành vi trên cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm minh nhằm trừng trị, cải tạo thành người tốt và răn đe và giáo dục chung.

[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân của bị cáo V V D: Bị cáo có nhân thân tốt Tình tiết tăng nặng: không có tình tiết tăng nặng Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thấy được lỗi lầm của mình, bị cáo đã hai lần lập được thành tích trong việc giúp đỡ Công an xã Y L và Công an huyện Y Y bắt giữ tội phạm, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo D ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và và răn đe giáo dục chung. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử sẻ giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được tính nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về vật chứng vụ án:

Qua điều tra, xác định 01 (một) phương tiện đầu kéo biển kiểm soát 12C – 03230 và 01 (một) phương tiện rơ móoc biển kiểm soát 12R – 00395 cùng giấy tờ liên quan là của công ty TNHH MTV B V, L S. Công ty kí hợp đồng lao động với V V D và không biết sự việc vận chuyển trái phép chất ma túy của D.

Ngày 02/08/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa đã lập biên bản trao trả đồ vật, tài liệu cho đại diện công ty TNHH MTV B V, L S. Việc xử lý vật chứng này của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.

Đi với số vật chứng còn lại: Căn cứ điểm a khoản 2, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy:

- Số ma túy sau giám định bỏ vào 01 (một) bì thư dán kín, ghi "657/GĐ- PC09" "Mẫu ký hiệu A" được niêm phong bằng các chữ ký của ông L Đ B, N N S, T N T, Đ X B và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình;

Căn cứ điểm b khoản 3, Điều 106 BLTTHS trả lại cho bị cáo V V D:

- 01 (một) giấy thông hành số H 0642410 do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 04/10/2018 mang tên V V D;

- 01 (một) căn cước công dân số 036084007301 do Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày 06/07/2017 mang tên V V D;

- 01 (một) giấy phép lái xe số 010142030986 do Sở giao thông vận tải Hải Phòng cấp ngày 03/12/2015 mang tên V V D;

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu OPPO (không rõ chất lượng bên trong), số IMEI 1: 866376042440096 và IMEL 2: 8663760424400..; bên trong khe chứa sim 1 có chứa 01 sim hiệu Unitel số seri: 89457030021232127.., khe chứa sim 2 có 01 sim hiệu Viettel số seri: 89840480000324648...

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu NOKIA (không rõ chất lượng bên trong), IMEl: 359002099703558; bên trong khe chứa sim 1 có chứa 01 sim Viettel số seri: 89840480000031609...

Số vật chứng trên đã đựơc chuyển giao và hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Minh Hóa theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Minh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Không.

[8]. Trong vụ án này có người đàn ông bán ma túy cho D. Tuy nhiên D không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan CSĐT không thể điều tra, không xác định được đối tượng trên nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm.

[9] Về án phí: Bị cáo V V D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo V V D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo V V D.

Xử phạt bị cáo V V D 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 24/7/2019.

Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo V V D 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

2- Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 2, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy:

- Số ma túy sau giám định bỏ vào 01 (một) bì thư dán kín, ghi "657/GĐ- PC09" "Mẫu ký hiệu A" được niêm phong bằng các chữ ký của ông L Đ B, N N S, T N T, Đ X B và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình;

Căn cứ điểm b khoản 3, Điều 106 BLTTHS trả lại cho bị cáo V V D:

- 01 (một) giấy thông hành số H 0642410 do Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 04/10/2018 mang tên V V D;

- 01 (một) căn cước công dân số 036084007301 do Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày 06/07/2017 mang tên V V D;

- 01 (một) giấy phép lái xe số 010142030986 do Sở giao thông vận tải Hải Phòng cấp ngày 03/12/2015 mang tên V V D;

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu OPPO (không rõ chất lượng bên trong), số IMEI 1: 866376042440096 và IMEL 2: 8663760424400..; bên trong khe chứa sim 1 có chứa 01 sim hiệu Unitel số seri: 89457030021232127.., khe chứa sim 2 có 01 sim hiệu Viettel số seri: 89840480000324648...

- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu NOKIA (không rõ chất lượng bên trong), IMEl: 359002099703558; bên trong khe chứa sim 1 có chứa 01 sim Viettel số seri: 89840480000031609...

Số vật chứng trên đã đựơc chuyển giao và hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Minh Hóa theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Minh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa.

3- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo V V D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công.

4- Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/10/2019) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về