Bản án 16/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐXXST-HS ngày 09  tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: TRẦN NGỌC TUẤN A, sinh ngày 10/11/1992, tại: tỉnh Đắk Lắk. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Ngọc D và bà Ngô Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/9/2018 cho đến nay, Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Chí T, sinh năm 1990; Địa chỉ: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt)

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm: 1986; Địa chỉ: Đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Ngọc Tuấn A là đối tượng nghiện ma túy đá từ năm 2015 cho đến nay. Vào khoảng 20 giờ ngày 19/9/2018, Tuấn A gặp một người nam giới tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk mua 03 gói ny lon chứa chất ma túy và 01 gói nylon trong suốt chứa 01 viên thuốc lắc với số tiền 1.000.000 đồng về để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, Trần Ngọc Tuấn A đón xe taxi đi về phòng trọ tại hẻm đường N, phường T, thành phố B để ngủ. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/9/2018, Tuấn A cất ma túy vào túi quần phía sau bên trái đang mặc, rồi nhờ bạn tên Nguyễn Chí T điều khiển xe ô tô hiệu Honda City, màu trắng, mang biển số 47A-198.16 chở đi tìm bạn, khi đi đến đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, phát hiện, bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tang vật thu giữ trong túi quần phía sau bên trái của Trần Ngọc Tuấn A đang mặc gồm: 01 gói ny lon màu xanh, 01 gói nylon màu đỏ, 01 gói nylon trong suốt đều chứa chất rắn dạng tinh thể và 01 gói nylon trong suốt chứa viên nén hình tròn, màu vàng, tất cả được niêm phong theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số: 835/GĐMT-PC09 ngày 27/9/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 03 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có tổng khối lượng 0,9967 gam, loại Methamphetamine; Viên nén hình tròn màu vàng đựng trọng 01 gói nylon trong suốt được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,4154 gam, loại Ketamine.

Tại bản cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 04/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Trần Ngọc Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc Tuấn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Thuột vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Ngọc Tuấn A, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Tuấn A phạm tội “Tàng trữ  trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Tuấn A từ: 15 tháng đến 18 tháng  tù.

* Các biện pháp tư pháp:Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 0,8031 gam ma tuý, loại Methamphetamine và 0, 2330 gam ma túy, loại Ketamine còn lại sau giám định được niêm phong trong gói số 835/GĐMT-PC09 ngày 27/9/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án.

- Chấp nhận, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại chiếc xe ô tô hiệu Honda City, màu trắng, mang biển số 47A-198.16; số máy L15Z12321104, số khung RLHGM6669HY820625 cho anh Nguyễn Chí T là chủ sở hữu nhận sử dụng là phù hợp.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Ngọc Tuấn A tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập, có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Vào khoảng 12 giờ 30 ngày 20/9/2018 tại đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Trần Ngọc Tuấn A đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,9967 gam ma túy, loại Methamphetamine và 0,4154 gam ma túy, loại Ketamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi tàng trữ 0,9967 gam ma túy, loại Methamphetamine và 0,4154 gam ma túy, loại Ketamine của Trần Ngọc Tuấn A đã phạm vào tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a,……;

b,……;

………

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

...”

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, buộc bị cáo phải biết được ma túy là chất gây nghiện nặng, do Nhà nước độc quyền quản lý, mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc; Hơn nữa tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người là rất lớn, mặt khác còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật tài sản….Do đó, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời ngăn ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của  pháp luật Nhà nước ta.

[3] Các biện pháp tư pháp:

[3.1] Đối với số lượng ma túy còn lại sau giám định gồm: 0,8031 gam, loại Methamphetamine và 0, 2330 gam, loại Ketamine được niêm phong trong gói số: 835/GĐMT-PC09 ngày 27/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[3.2] Đối với 01 chiếc xe ô tô hiệu Honda City, màu trắng, biển số 47A-198.16; số máy L15Z12321104, số khung RLHGM6669HY820625, qua xác minh xác định được chiếc xe trên là tài sản của anh Nguyễn Chí T, ngày 20/9/2018 bị cáo Trần Ngọc Tuấn A nhờ anh T chở đi tìm bạn, anh T không biết việc bị cáo Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho anh Nguyễn Chí T nhận quản lý sử dụng, là phù hợp.

[3.3] Đối với nguồn ma túy loại Methamphetamine và Ketamine thu giữ được của Trần Ngọc Tuấn A, bị cáo khai mua của người thanh niên tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực đường B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, nhưng đến nay vẫn chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của đối tượng trên. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của đối tượng trên ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[3.4] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Ngọc Tuấn A. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.

[4] Về hành vi tố tụng, các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Tuấn A: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/9/2018.

* Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ 0,8031 gam ma túy, loại Methamphetamine và 0, 2330 gam ma túy, loại Ketamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 835/GĐMT- PC09 ngày 27/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2019 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B)

- Chấp nhận việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại cho anh Nguyễn Chí T 01 xe ô tô hiệu Honda City, màu trắng, mang biển kiểm soát 47A-198.16; số máy L15Z12321104, số khung RLHGM6669HY820625 là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng;

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Ngọc Tuấn A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về