Bản án 27/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại Phòng xử A, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 04 năm 2019 đối với bị cáo: Lê Thị Thanh Ph; sinh ngày 09/11/1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: xx Nhật Tảo, Phường x, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Nguyễn Thị Minh N; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Đình C, sinh năm 1972; địa chỉ: x Xóm Củi, Phường x, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa;

- Người làm chứng: Ông Trần Hồng M, sinh năm 1977; địa chỉ: xx Lê Đình Cẩn, phường xx, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ 20 phút ngày 01/02/2019, tại trước nhà số 1304C Đường 3 Tháng 2, Phường 2, Quận 11, tổ tuần tra 363 của Công an Quận 11 phát hiện đối tượng Trần Hồng M điều khiển xe mô tô chở đối tượng Lê Thị Thanh Ph không đội mũ bảo hiểm đang lưu thông trên đường nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi xách màu đen để ở giữa xe có một gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng và một gói nylon chứa mảnh vụn viên nén màu xám. Đối tượng Ph khai nhận chiếc túi xách là của Ph; chất tinh thể và mảnh vụn nén là ma túy. Do đó, tổ tuần tra đã đưa đối tượng Ph về trụ sở Công an Phường 2, Quận 11 lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 tiến hành trưng cầu giám định đối với gói tinh thể màu trắng và mảnh vụn nén màu xám đã thu giữ của đối tượng Ph. Tại Bản kết luận giám định số 540/KLGĐ-H ngày 14/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

 “- Gói 1: 02 mảnh vụn màu xám được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4814g (không phẩy bốn tám một bốn gam), loại MDMA.

- Gói 2: Tinh thể màu trắng được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,2602g (ba phẩy hai sáu không hai gam), loại Ketamine”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, bị can Lê Thị Thanh Ph khai nhận trước khi bị kiểm tra và phát hiện thì bị can có đi uống bia cùng với đối tượng Trần Hồng M và một số người bạn của M. Trong khi uống bia thì một người bạn của đối tượng M (không rõ lai lịch) đưa ma túy cho Ph sử dụng. Sau khi sử dụng, bị can Ph cất giữ phần còn lại trong túi xách với mục đích để dành sử dụng lần sau.

Đối tượng Trần Hồng M khai: Vào tối ngày 31/01/2019, M chở bị can Ph đi uống bia với những người bạn quen ngoài xã hội nên không biết lai lịch và địa chỉ của những người bạn này. Đối tượng M không biết ai đã đưa ma túy cho bị can Ph và không biết bị can Ph có cất giữ ma túy.

Tại Phiếu kết quả xét nghiệm nước tiểu ngày 01/02/2019 do Bệnh viện Quận 11 tiến hành đối với đối tượng Trần Hồng M thì nước tiểu của đối tượng M âm tính với các chất gây nghiện.

Tại Phiếu kết quả xét nghiệm nước tiểu ngày 01/02/2019 do Bệnh viện Quận 11 tiến hành đối với bị can Lê Thị Thanh Ph thì nước tiểu của bị can Ph dương tính với các chất gây nghiện là Amphetamine và Methamphetamine.

Vật chứng của vụ án gồm có:

- Hai gói niêm phong ghi số vụ 540 bên trong có chứa phần còn lại của 02 mảnh vụn màu xám có khối lượng 0,2384g và chất tinh thể màu trắng có khối lượng 2,8355g là ma túy còn lại sau giám định, thu giữ của bị can Ph.

- Một túi xách màu đen; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.500.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu iphone XS MAS màu vàng đồng là tài sản cá nhân của bị can Lê Thị Thanh Ph.

- Thu giữ của Trần Hồng M bao gồm: Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 14.800.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu iphone X màu trắng là tài sản cá nhân của Trần Hồng M; 01 xe mô tô hiệu Honda SH màu đen, biển số 59S1-243.000. Qua xác minh, Công an Quận 11 đã xác định được chiếc xe trên do bà Mai Thị Hồng Nh đứng tên đăng ký sở hữu xe. Bà Nh đã bán chiếc xe trên cho ông Nguyễn Thành L theo hợp đồng ủy quyền có công chứng. Sáu đó, ông L đã bán lại chiếc xe cho ông Trần Đình C theo hình thức hợp đồng mua bán có công chứng. Ngày 31/01/2019 ông C bán lại chiếc xe trên cho ông Trần Hồng M nhưng chưa làm hợp đồng. Kết quả giám định số khung và số máy của chiếc xe là không thay đổi. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe và các tài sản đã thu giữ cho chủ sở hữu là ông Trần Hồng M (BL 83).

Tại Bản cáo trạng số 27/CT-VKSQ11 ngày 22/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị can Lê Thị Thanh Ph tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Thanh Ph có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Trần Đình C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, xác nhận chiếc xe mô tô hiệu Honda SH màu đen, biển số 59S1-243.000 là do ông mua lại từ ông Nguyễn Thành L và đã bán lại cho ông Trần Hồng M nhưng chưa làm thủ tục sang tên chủ quyền. Ông Trần Đình C không có yêu cầu gì đối với ai trong vụ án.

Người làm chứng là ông Trần Hồng M vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào lúc 02 giờ 20 phút ngày 01/02/2019, tại trước nhà số 1304C Đường 3 Tháng 2, Phường 2, Quận 11, bị cáo Lê Thị Thanh Ph đã có hành vi cất giữ hai gói nylon bao gồm một gói chứa mảnh vụn màu xám là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4814g (không phẩy bốn tám một bốn gam), loại MDMA và một gói nylon có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,2602g (ba phẩy hai sáu không hai gam), loại Ketamine.

Bị cáo Lê Thị Thanh Ph cất giữ các chất ma túy trên nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, biết rõ ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao bị Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển. Song do bị cáo bị nghiện ma túy nên để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất gây nghiện, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, chống lại chủ trương bài trừ tệ nạn ma túy của Nhà nước. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Vật chứng là hai gói niêm phong ghi vụ số 540 bên trong có chứa phần còn lại của ma túy sau giám định. Đây là vật cấm tàng trữ. Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tịch thu, tiêu hủy.

- Vật chứng là một túi xách màu đen; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.500.000 đồng; một điện thoại di động hiệu iphone XS MAS màu vàng đồng là tài sản cá nhân của bị cáo Lê Thị Thanh Ph, không sử dụng vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết trả lại cho bị cáo.

- Vật chứng là tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 14.800.000 đồng, một điện thoại di động hiệu iphone X màu trắng, một xe mô tô hiệu Honda SH màu đen, biển số 59S1-243.000 là tài sản cá nhân của ông Trần Hồng M, không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chủ sở hữu là ông Trần Hồng M. Hội đồng xét xử xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng đúng theo quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng  hình sự năm 2015 nên không giải quyết lại.

[4] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lê Thị Thanh Ph, điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 được phân công điều tra, kiểm sát giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, có cơ sở để xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Đối với đối tượng cung cấp ma túy cho bị cáo Lê Thị Thanh Ph hiện chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự là có căn cứ; khi điều tra, truy xét được sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 50; điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Thanh Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh Ph 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/02/2019.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tịch thu tiêu hủy hai gói niêm phong ghi vụ số 540 bên trong có chứa phần còn lại của ma túy sau giám định (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 27/LNK ngày 20/02/2019).

Trả lại cho bị cáo Lê Thị Thanh Ph vật chứng là một túi xách màu đen; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.500.000 đồng; một điện thoại di động hiệu iphone XS MAS màu vàng đồng (theo Lệnh nhập kho vật chứng số 27/LNK ngày 20/02/2019).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về