Bản án 27/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Thanh H, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện Y, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; n giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn D và bà Hoàng Thị D; vợ: Tạ Bích N (chưa đăng ký kết hôn), con: có một con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 05/4/2019, tạm giam ngày 11/4/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Đại Vương - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam. Có mặt.

- Bị hại:

+ Anh Bùi Văn Q, sinh năm 1997.

Trú tại: Xóm H, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hoà Bình. Vắng mặt.

+ Anh Đỗ Như Q, sinh năm 1985.

Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

+ Chị Bùi Thị M, sinh năm 1999.

Trú tại: Xóm L, xã K, huyện B, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Khắc N, sinh năm 1956.

Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam.

2. Chị Hồ Thị Y, sinh năm 1995.

Tm trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam.

3. Anh Bùi Đình N, sinh năm 1996. Tên gọi khác: Bùi Anh T.

Tạm trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam.

4. Chị Bùi Thị L, sinh năm 1997.

Trú tại: Xóm L, xã Th, huyện K, tỉnh Hòa Bình.

5. Anh Trương Đức C, sinh năm 1996.

Trú tại: Xóm H, xã Đ, huyện Y, tỉnh Hoà Bình.

Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hoàng Thanh H, sinh năm 1994 ở thôn T, xã C, huyện Y, tỉnh Yên Bái là công dân thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân tại Công an huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, xuất ngũ về địa phương. Ngày 30/3/2019, H đến xin việc tại Công ty ANam Electronics Việt Nam, thuộc khu công nghiệp Đồng Văn 4, xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam và ở phòng trọ của ông Lê Khắc M, ở xóm 6, thôn T, xã Đ, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Do không có tiền, sẵn có bộ quân phục học viên Cảnh sát nên nảy sinh ý định đi kiểm tra giấy tờ của công nhân thuê trọ nhằm mục đích nếu ai không có giấy tờ sẽ dọa và yêu cầu phải đưa tiền cho H. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 05/04/2019, H mặc bộ quân phục Cảnh sát, cầm theo một túi sách màu đen, 01 sổ tay màu đen đến khu nhà trọ của anh Đỗ Như Q, ở xóm 6, thôn T, xã Đ, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam vào phòng trọ của anh anh Bùi Văn Q, sinh năm 1997 và anh Trương Đức C, sinh năm 1996 nói: “Tôi là HN là công an đi kiểm tra tạm trú, các anh cho kiểm tra giấy xác nhận dân sự”. Anh Q1, anh Q2 xuất trình được giấy tờ, anh C không có giấy tờ thì H nói: “Nếu không có yêu cầu anh về Uỷ ban xã làm việc và sẽ tạm giữ 24 giờ”, anh Q1, anh C sợ nên cùng xin H tha cho anh C, thì H nói: “Anh đi làm thế này tiền xăng cộ các thứ, anh nói thế chắc mày cũng hiểu”, anh Q1 lấy 100.000đồng kẹp vào giữa quyển sổ H cầm trên tay, H lấy tiền cất vào túi quần rồi đi sang phòng trọ của chị Hồ Thị Y, sinh 1995, ở xã A , huyện Đ, tỉnh Quảng Trị nói: “Em đã nhận được thông báo chưa? Cho anh kiểm tra giấy xác nhận dân sự và giấy tạm vắng”, chị Y không xuất trình được giấy xác nhận, H nói: “Nếu không có giấy thì anh sẽ cho mày lên Công an huyện giữ 24 giờ”, chị Y đi tìm anh Đỗ Như Q và nói có Công an kiểm tra tạm vắng, anh Q đi ra gặp Hoài nói chị Y mới đến ở trọ nên chưa có giấy tạm vắng, H nói với anh Q: “Không có giấy tờ thì tôi gọi đội đến làm việc, muốn tôi không gọi đội thì phải có cái gì đó đưa cho tôi”. Lúc này, anh Q lấy tờ tiền 100.000đồng ra đưa cho H, H cầm tiền, anh Q nói: “Tôi cũng có người nhà làm Công an”, H nói: “Sao anh không nói sớm” và trả lại cho anh Q 100.000đồng. Tiếp tục Hoàng Thanh H đi đến khu nhà trọ của ông Lê Khắc N, ở xóm 6, thôn T, xã Đ, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, vào phòng trọ của vợ chồng chị Bùi Thị M, sinh năm 1999 ở xã K, huyện B, tỉnh Hoà Bình nói: “Chào em, em mở cửa ra để anh làm việc”, H nói: “Yêu cầu anh chị cho kiểm tra giấy xác nhận dân sự”, chị M và anh N không xuất trình được giấy tờ, H nói: “Em phải cho anh cái gì chứ, không tý nữa đội của anh có tám người đến mời vợ chồng em lên phường ngủ”, chị M sợ vừa khóc vừa nói: “Anh cho em xin, bọn em còn con nhỏ không có tiền”, H nói: “Không có tiền thì cho lên phường ngủ” và nói tiếp: “Thôi đưa cho anh một trăm”. Chị M lấy 50.000đồng kẹp vào quyển sổ trên tay H, H cầm 50.000đồng cất vào túi quần, nói: “Được rồi lần này anh tha, 3 tháng sau phải có đầy đủ giấy tờ đấy nhé”. H đi từ phòng trọ của chị M ra thì bị Công an huyện K, tỉnh Hà Nam bắt quả tang. Thu giữ của Hoàng Thanh H 150.000đồng, 01 túi bằng vải màu đen, 01 quyển sổ màu đen, 01 bộ quân phục cảnh sát thu đông gồm 01 quần dài, 01 áo cỡ số 5 có gắn ve, hàm học viên trường Công an nhân dân màu xanh lá cây, 01 thắt lưng da màu nâu; 01 cà vạt màu xanh lá, 01 áo sơ mi trắng; 01 đôi giầy da màu đen, 01 đôi tất màu xanh lá cây. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Thanh H không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKSKB ngày 28/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố Hoàng Thanh H về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thanh H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 170; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Hoàng Thanh H từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu đen, 01 quyển sổ màu đen, 01 bộ quân phục cảnh sát thu đông gồm: 01 quần dài, 01 áo cỡ số 5 có gắn ve, hàm học viên trường Công an nhân dân, 01 thắt lưng da màu nâu, 01 cà vạt màu xanh lá cây, 01 áo sơ mi trắng, 01 đôi giầy da màu đen, 01 đôi tất màu xanh lá cây. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về án phí, quyền kháng cáo.

Người bào chữa cho bị cáo H nhất trí những nội dung của Viện kiểm sát đề xuất đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được giảm nhẹ hình hình phạt cho bị cáo. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, ý kiến người bào chữa. Bị cáo không tranh luận gì, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên toà và quá trình điều tra Hoàng Thanh H thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai người làm chứng, bị hại về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên toà. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 05/4/2019, Hoàng Thanh H, sinh năm 1994, ở thôn T, xã C, huyện Y, tỉnh Yên Bái giả danh là Công an đến khu nhà trọ ở xóm 6, thôn T, xã Đ, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam để kiểm tra giấy tờ tùy thân, doạ, uy hiếp tinh thần của anh Bùi Văn Q, anh Trương Đức C, chị Hồ Thị Y, anh Đỗ Như Q và vợ chồng chị Bùi Thị M để chiếm đoạt của anh Bùi Văn Q số tiền 100.000đồng, anh Đỗ Như Q số tiền 100.000đồng và chị Bùi Thị M số tiền 50.000đồng thì bị Công an huyện K, tỉnh Hà Nam bắt quả tang. Hành vi đó của Hoàng Thanh H đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ đó là quyền sở hữu tài sản. Bị cáo thực hiện hành vi giả danh là Công an đi kiểm tra giấy tờ tùy thân, dọa, uy hiếp tinh thần các anh Bùi Văn Q, anh Trương Đức C, chị Hồ Thị Y, anh Đỗ Như Q và vợ chồng chị Bùi Thị M làm cho những người này sợ và anh Bùi Văn Q, anh Đỗ Như Q mỗi người đã đưa 100.000 đồng, chị Bùi Thị M đưa 50.000đồng cho bị cáo theo đòi hỏi mà bị cáo đưa ra.

[3] Xét về mặt chủ quan của tội phạm, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải xử phạt nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống và nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt Tòa án cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, có thời gian tham gia thực hiện nghĩa vụ trong ngành Công an nhân dân, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, hậu quả xảy ra đã thu hồi trả lại cho những người bị hại. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 170 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 100.000.000đồng…hoặc bị tịch thu một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Gồm 01 túi vải, 01 quyển sổ màu đen, 01 bộ quân phục cảnh sát thu đông có: 01 quần dài, 01 áo cỡ số 5 có gắn ve, hàm học viên trường Công an nhân dân, 01 thắt lưng da màu nâu, 01 cà vạt, 01 áo sơ mi trắng, 01 đôi giầy da màu đen, 01 đôi tất là vật chứng bị cáo sử dụng, giả danh là Công an để chiếm đoạt tài sản nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng đã trả lại tài sản cho bị hại. Sau khi nhận lại tài sản, người bị hại không có ý kiến gì nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thanh H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 170; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Hoàng Thanh H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ ngày 05/4/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu đen, 01 quyển sổ màu đen, 01 bộ quân phục cảnh sát thu đông gồm: 01 quần dài, 01 áo cỡ số 5 có gắn ve, hàm học viên trường Công an nhân dân, 01 thắt lưng da màu nâu, 01 cà vạt màu xanh lá cây, 01 áo sơ mi trắng, 01 đôi giầy da màu đen, 01 đôi tất màu xanh lá cây. (Tình trạng, đặc điểm vật chứng, tài sản như biên bản giao nhận giữa cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 29/5/2019).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hoàng Thanh H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về