Bản án 27/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 27/2019/HSST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07/3/2019, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn B, sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: đường M, phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: không biết chữ; con ông Nguyễn Văn M sinh năm 1967 và con bà Trần Thị Thanh L sinh năm 1973; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 202/2016/HSST ngày 12/12/2016 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/01/2018; tiền sự: không; Nhân thân: Quyết định số 160/QĐ-XPVPHC ngày 01/4/2015 của Công an xã Phước Lộc, huyện Nhà Bè xử phạt Nguyễn Văn B số tiền 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/11/2018 (Có mặt tại phiên tòa).

2. Dương Quốc T (tên gọi khác là Bi), sinh năm 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: đường M, phường N, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: không biết chữ; con ông Dương Quốc D sinh năm 1978 và con bà Đặng Thị Phi P sinh năm 1980; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: ngày 15/3/2018 bị Ủy ban nhân dân phường Phú Mỹ, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng giáo dục tại xã, phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 24/11/2018 (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Ông Đỗ Thế V, sinh năm 1978; địa chỉ: đường M, phường N, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ ngày 22/11/2018, Trần Minh G (tên gọi khác: Minh) và Dương Quốc T (tên gọi khác là Bi) đến nhà Nguyễn Văn B để cùng nhau sử dụng chung ma túy. Đến 01 giờ ngày 23/11/2018 G rủ T và B đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. T và B đồng ý, G phân công T đi quan sát trước xem nhà nào trong xóm mà sơ hở thì về báo cho G và B biết để trộm cắp. T đi quan sát trong hẻm 115 đường Phạm Hữu Lầu, phường Phú Mỹ, Quận 7 thì phát hiện nhà ông Đỗ Thế Vinh, địa chỉ 115/28/8 Phạm Hữu Lầu, khu phố 2, phường Phú Mỹ, Quận 7 ngủ dưới tầng trệt, không khóa cửa trên lầu. T quay về báo cho G và B biết. G phân công T, B cảnh giới bên ngoài, để G leo vào nhà ông Vinh, bàn bạc xong cả bọn cùng thực hiện như sau:

- G và T đi đến nhà ông Đỗ Thế Vinh, tại đây G leo lên lầu 1, T đứng cảnh giới ở cửa sổ dưới đất nhà ông Vinh, phát hiện bên trong nhà ông Vinh có nhiều tài sản nhưng T sợ bị người nhà ông Vinh thức giấc và người dân trong hẻm phát hiện vì họ biết mặt T nên T đã gọi điện thoại kêu G xuống để về kêu B lại canh, vì vậy G và T quay về nhà.

- G phân công T đứng cảnh giới ngay ngã ba hướng rẽ vào nhà ông Vinh, còn B đứng trước nhà ông Vinh có nhiệm vụ cảnh giới, nếu có người dân trong hẻm ra vào hoặc người nhà ông Vinh phát hiện thì dùng điện thoại báo cho G biết. G leo hàng rào bảo vệ lên lầu 1 rồi dùng mỏ lết đã chuẩn bị trước, bẻ gãy song sắt hàng rào bảo vệ đột nhập vào nhà, đi xuống tầng trệt gần vị trí chổ ngủ của gia đình ông Vinh lấy trộm 01 cặp táp trong có: 01 điện thoại di động hiệu Samsung S8 Plus, 01 điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge; 01 máy Laptop màu đen nhãn hiệu Dell; 01 máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab; 01 điện thoại di động hiệu Mobell rồi đem về nhà B cất giấu.

- Một lúc sau, G rủ T quay lại nhà anh Vinh trộm cắp tiếp. Khi tới nhà anh Vinh, T đứng ngoài cảnh giới, còn G vào trong lấy trộm 01 cái bóp của anh Vinh đang để trong túi quần treo trên tường bên trong có 800.000 đồng và một số giấy tờ, sau đó G đi ra cửa trước mang về nhà B cất giấu.

Đến 08 giờ sáng cùng ngày, cả 03 lấy số tiền trộm là 800.000 đồng mua đồ ăn sáng, sau đó G đưa cho T 02 cái điện thoại di động Samsung để đem ra tiệm thuê mở mật khẩu, máy laptop đưa cho B cất giấu chờ mở khóa xong sẽ bán lấy tiền chia nhau, còn cặp táp cùng máy tính bảng, 01 điện thoại di động hiệu Mobell và giấy tờ G cất giữ.

Qua truy xét, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 tiến hành bắt giữ Nguyễn Văn B, Dương Quốc T thu hồi được 01 điện thoại di động hiệu Samsung S8 Plus, 01 điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge. Số tài sản còn lại G đang cất giữ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7, các bị cáo Nguyễn Văn B, Dương Quốc T đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại bản Cáo trạng số 36/CT-VKSQ7 ngày 12/02/2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn B, Dương Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn B, Dương Quốc T cùng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Dương Quốc T từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Các bị cáo khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của mình phù hợp với nội dung vụ án được tóm tắt ở trên, không tự bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 7, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa xét có đủ cơ sở để kết luận:

Trần Minh G và các bị cáo Nguyễn Văn B, Dương Quốc T đã có sự bàn bạc phân công, cấu kết chặt chẽ với nhau khi thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung S8 Plus, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge, 01 (một) máy laptop màu đen nhãn hiệu Dell, 01 (một) máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab, 01 (một) điện thoại Mobell, 01 (một) cặp táp cũ. Theo Kết luận định giá tài sản số 451/KL-HĐ ĐGTTHS ngày 30/11/2018 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh thì tài sản các bị cáo chiếm đoạt có tổng giá trị 24.000.000đ (hai mươi bốn triệu đồng) và số tiền 800.000 đồng của người bị hại ông Đỗ Thế Vinh một cách trái pháp luật.

Trong vụ án này, G là người chủ mưu, rủ rê, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo T có vai trò là người đi quan sát tìm kiếm tài sản về báo lại cho G và bị cáo B, sau đó có vai trò đứng cảnh giới ở đầu hẻm để bị cáo B và G thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, là người đem tài sản 02 (hai) điện thoai Samsung chiếm đoạt được đi mở khóa bảo mật để về tiêu thụ. Bị cáo B có vai trò là người đứng cảnh giới ngay nhà ông Vinh để cho G leo vào nhà lấy tài sản. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp “Có tổ chức’ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là táo bạo, liều lĩnh khi liên tiếp nhiều lần đột nhập vào nhà của người bị hại, lấy tài sản ngay cạnh chổ ngủ của gia đình người bị hại rồi mở cửa chính của nhà để tẩu thoát. Hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an. Các bị cáo là thanh niên khỏe mạnh, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật. Bị cáo T vừa chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng, bị cáo B đã từng bị xử phạt hành chính theo Quyết định số 160/QĐ-XPVPHC ngày 01/4/2015 của Công an xã Phước Lộc, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh về hành vi trộm cắp tài sản nhưng các bị cáo không chịu tu dưỡng bản thân, do lười lao động, để có tiền sử dụng ma túy và tiêu xài nên các bị cáo đã phạm tội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bản án hình sự sơ thẩm số 202/2016/HSST ngày 12/12/2016 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 02 năm 06 tháng tù. Chấp hành hình phạt tù xong ngày18/01/2018, chưa đóng án phí. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Vì vậy, cần phải có một mức án nghiêm tương xứng với vai trò và mức độ phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

Đi với Trần Minh G hiện đã bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã ra thông báo truy tìm đối tượng, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Ngưi bị hại là ông Đỗ Thế Vinh đã có đơn không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường tài sản chưa thu hồi được và số tiền mặt 800.000đ (tám trăm ngàn đồng), nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xử lý vật chứng vụ án:

- 01(một) đĩa CD được niêm phong, chứa hình ảnh camera Nguyễn Văn B, Dương Quốc T và Trần Minh G trộm cắp tài sản tại địa chỉ 115/28/8 Phạm Hữu Lầu, khu phố 2, phường Phú Mỹ, Quận 7 ngày 23/11/2018, đây là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01(một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen vàng; Imei: 354978091815265; 354978091815273 thu giữ của bị cáo Dương Quốc T và 01(một) điện thoại di động Nokia, màu đen, Imei: 354890080329705; 354890080329713 thu giữ của Nguyễn Văn B. Đây là điện thoại mà các bị cáo sử dụng để gọi báo cho nhau khi thực hiện nhiệm vụ cảnh giới, nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 800.000 đồng, đây là số tiền các bị cáo đã chiếm đoạt của người bị hại ông Đỗ Thế Vinh, các bị cáo đã cùng nhau tiêu xài hết số tiền này, người bị hại là ông Vinh không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên xét buộc các bị cáo phải liên đới nộp lại để sung quỹ Nhà nước.

- 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung S8 Plus; 01(một)điện thoại di động hiệu Samsung S7 Edge; 01(một) máy Laptop màu đen nhãn hiệu Dell, đã trả lại cho người bị hại, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với vật chứng 01(một) máy tính bảng hiệu Samsung Galaxy Tab, 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, 01(một) cặp táp cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa, các bị cáo xác định các tài sản trên là do Trần Minh G cất giữ, chưa được bán để chia cho nhau, hiện không thu hồi được, người bị hại anh Đỗ Thế Vinh không có yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn B và Dương Quốc T cùng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2018.

2. Áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Dương Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2018.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Lưu vào hồ sơ vụ án 01(một) đĩa CD được niêm phong, chứa hình ảnh camera Nguyễn Văn B, Dương Quốc T và Trần Minh G trộm cắp tài sản tại địa chỉ 115/28/8 Phạm Hữu Lầu, khu phố 2, phường Phú Mỹ, Quận 7 ngày 23/11/2018.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01(một) điện thoại di động hiệu Itel, màu đen vàng; Imei: 354978091815265; 354978091815273 thu giữ của bị cáo Dương Quốc T; 01(một) điện thoại di động Nokia, màu đen, Imei: 354890080329705; 354890080329713 thu giữ của Nguyễn Văn B.

(theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 53 ngày 25/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 7).

- Buộc các bị cáo Nguyễn Văn B, Dương Quốc T phải liên đới nộp lại số tiền 800.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: Mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/3/2019), các bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Đi với người bị hại là ông Đỗ Thế V vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày tính từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:27/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về