Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 27/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 153/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXX-ST ngày 24 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D - Sinh năm 1999

Địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu H - Sinh năm 1997

Địa chỉ: Thôn 5, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Tại phiên toà có mặt chị D, vắng mặt anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Ti đơn khởi kiện ngày 05/6/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phạm Thị D trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hữu H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức và được UBND xã Hà Lai, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/8/2018. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thường xuyên chơi bời, rượu chè, không tu chí làm ăn hơn nữa anh hay đánh chị, tháng 7/2019 con nằm viện bà ngoại của chị đến chăm thì anh H đến gây gỗ và đánh bà, làm cho mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Từ tháng 02/2019 chị đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở và từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Nguyễn Việt A - Sinh ngày 06/01/2019.

Hiện nay cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị.

Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con và anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng đến khi cháu đủ 18 tuổi.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ti bản tự khai ngày 29/8/2019 anh Nguyễn Hữu H trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị D kết hôn tự nguyện và được Uỷ ban nhân dân xã Hà Lai, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/8/2018. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bố anh bị rách giác mạc mắt, anh nói chị D đưa tiền chung của vợ chồng để đi chữa mắt cho bố nhưng chị D không đưa nên vợ chồng có cải vả nhau, trong lúc tức giận anh có tát chị D một cái vào người, do đó chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, từ đó đến nay chị D đã về ở hẳn nhà bố mẹ đẻ và không quan tâm đến gia đình chồng. Nay chị D làm đơn xin ly hôn anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn với chị D.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Nguyễn Việt A - Sinh ngày 06/01/2019.

Nguyện vọng của anh là nếu ly hôn là để cháu Việt A cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng và anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng đến khi cháu đủ 18 tuổi.

- Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo ông Nguyễn Hữu T là bố đẻ của anh H cho biết: Anh H và chị D là vợ chồng, kết hôn năm 2018. Sau khi kết hôn vợ chồng không có việc làm ổn định dẫn đến thu nhập không ổn định, kinh tế khó khăn dẫn đến hai cháu thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, khoảng từ tháng 01/2019 do mâu thuẫn nên cháu D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Hà Tiến để ở cho đến nay. Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Việt A, sinh năm 2019, vợ chồng không có tài sản chung. Hiện nay cháu H đi làm ăn, cháu vẫn thường xuyên về nhà. Các loại giấy tòa Tòa án giao ông đã trực tiếp giao cho cháu H tuy nhiên cháu H không đến Tòa án làm việc. Quan điểm của ông là đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật và ông cũng đồng ý nhận toàn bộ các văn bản giấy tờ và sẽ trực tiếp giao cho cháu H.

* Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã tiến hành xác minh tại xã Hà Lai, theo thông tin cung cấp thì được biết: Chị D và anh H là vợ chồng, anh chị sống với nhau hạnh phúc chỉ được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn do anh H chơi bời, không tu chí làm ăn, nên xảy ra cải vả. Từ đầu năm 2019 chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Hà Tiến sinh sống cho đến nay. Chị D không chuyển khẩu về xã Hà Lai, vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Việt A.

Do chị D có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị D, xử cho ly hôn giữa chị D và anh H, về con chung giao cháu Nguyễn Việt A cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D mỗi tháng là 1.000.000đồng cho đến khi cháu A đủ 18 tuổi.

Tại phiên tòa hôm nay chị D giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Hữu H không có mặt tại phiên toà, Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên toà cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về hôn nhân: Chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Hữu H kết hôn với nhau năm 2018 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Chị D xin được ly hôn, anh H xin được đoàn tụ.

Xét thấy, chị D thực sự không còn tình cảm với anh H, trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh H cũng không đưa ra được phương án để vợ chồng đoàn tụ, Tòa án đưa ra hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ và tại phiên tòa anh đều vắng mặt, như vậy thể hiện anh không quan tâm đến việc giải quyết vụ án. Đến nay chị D vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được. Mặt khác anh H cũng thừa nhận anh có tát chị D và chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, không quan tâm đến gia đình. Qua xác minh của Toà án tại chính quyền địa phương nơi anh chị sinh sống thể hiện vợ chồng anh chị sống hạnh phúc chỉ được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn do anh H chơi bời, không tu chí làm ăn, nên xảy ra cải vả.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị D đã thực sự không còn tình cảm với anh H, anh H bỏ mặc việc giải quyết vụ án chứng tỏ anh cũng không còn tình cảm với chị D. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị D được ly hôn anh H là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng đều thống nhất có 01 con chung là: Nguyễn Việt A - Sinh ngày 06/01/2019.

Nay vợ chồng ly hôn, nguyện vọng của chị D là muốn trực tiếp được nuôi con và anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng. Nguyện vọng của anh H là nếu ly hôn giao con cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng và anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng.

Xét thấy nguyện vọng của anh chị là giao cháu Việt A cho chị D nuôi dưỡng là hoàn toàn chính đáng. Hội đồng xét xử thấy rằng cháu Việt A còn nhỏ, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ là con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, mà hiện nay cháu Việt Anh mới được 09 tháng tuổi, nên cần giao cho mẹ nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý của cháu. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HNGĐ giao cháu Việt A cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D và anh H đều thống nhất nếu chị D nuôi dưỡng con anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng, xét thấy mức cấp dưỡng như vậy là phù hợp với mức thu nhập hiện nay và cũng đảm bảo cho việc nuôi dưỡng chăm sóc con của chị D. Nên cần buộc anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Việt A đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 11/2019.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Phạm Thị D là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị D phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Anh Nguyễn Hữu H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

[1]. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Hữu H.

[2]. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu: Nguyễn Việt A - Sinh ngày 06 tháng 01 năm 2019.

2.1. Giao con chung Nguyễn Việt A cho chị Phạm Thị D trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Nguyễn Hữu H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng từ tháng 11/2019 đến khi cháu Nguyễn Việt A đủ 18 tuổi.

2.3. Anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3]. Về chia tài sản: Chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Hữu H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]. Về án phí:

- Chị Phạm Thị D phải chịu 300.000đ tin án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0005256 ngày 13/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị D đã nộp đủ.

- Anh Nguyễn Hữu H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí DSST về nghĩa vụ cấp dưỡng theo định kỳ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị D và anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày. Đối với chị D kể từ ngày tuyên án; đối với anh H kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:27/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về