Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 27/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ XIN LY HÔN

Hôm nay, ngày 25 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 2684//2018/TLST – HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2018 về việc “Xin ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1988. Địa chỉ: D5, đường D, khu 80, ấp L, xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Địa chỉ liên hệ: Phòng khám Lão, Bệnh viện đa khoa khu vực L, thị trấn L, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Hoàng Xuân Q, sinh năm 1986. Địa chỉ: D5, đường D, khu 80, ấp L, xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Hiện đang bị tạm giam tại: Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, địa chỉ: Tổ 39, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Bà Đ có mặt; ông Q có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 11/9/2018, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ trình bày:

Bà và ông Hoàng Xuân Q xây dựng gia đình năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã được Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn.

Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2015 phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân bất đồng quan điểm, tài chính, thường xuyên cãi vã, dẫn đến xung đột không tôn trọng lẫn nhau, vợ chồng không thể hàn gắn đoàn tụ. Tháng 7 năm 2018 cho đến nay ông Hoàng Xuân Q bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên bà và ông Hoàng Xuân Q sống ly thân cho đến nay. Nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà xin được ly hôn với ông Hoàng Xuân Q.

Về quan hệ con chung: Bà và ông Hoàng Xuân Q có 02 con chung cháu Hoàng Xuân H, sinh ngày 26/9/2012 và cháu Hoàng Khôi A, sinh ngày 14/6/2016. Ly hôn, bà có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 07/3/2019 bị đơn ông Hoàng Xuân Q trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Đ xây dựng gia đình năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã được Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hông ông và bà Nguyễn Thị Đ về chung sống tại ấp L, xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân về tình cảm, ông và bà Đ sống ly thân từ tháng 3 năm 2018 cho đến nay. Bà Đ xin được ly hôn với ông, ông không đồng ý vì còn tình cảm với bà Nguyễn Thị Đ.

Về quan hệ con chung: Ông và bà Nguyễn Thị Đ có 02 con chung cháu Hoàng Xuân H, sinh ngày 26/9/2012 và cháu Hoàng Khôi A, sinh ngày 14/6/2016.

Trường hợp phải ly hôn, ông có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, ông không yêu cầu bà Nguyễn Thị Đ cấp dưỡng nuôi hai con chung. Hiện cháu H đang sống với bà Đ, cháu A sống với ông bà nội, trong thời gian ông chấp hành án mặc dù không trực tiếp nuôi cháu A nhưng ông nhờ ông bà nội nuôi cháu A. Do ông đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, địa chỉ: tổ 39, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên ông xin vắng mặt trong các buổi làm việc, hòa giải và vắng mặt khi Tòa án xét xử.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay. Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được bà Nguyễn Thị Đ xin được ly hôn với ông Hoàng Xuân Q. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Đề nghị chấp nhận yeâu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Đ.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q có 02 con chung cháu Hoàng Xuân H, sinh ngày 26/9/2012 và cháu Hoàng Khôi A, sinh ngày 14/6/2016. Ly hôn bà Nguyễn Thị Đ yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A, bà Đ không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Hoàng Xuân Q có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung, ông Q không yêu cầu bà Đ cấp dưỡng nuôi hai con chung. Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q đều có nguyện vọng nuôi hai con chung cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A, bà Đ và ông Q đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi hai con chung, từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay bà Đ và ông Q sống ly thân, cháu H sống với bà Điệp, để đảm bảo sự phát triển của cháu H và cháu A. Nên giao cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A cho bà Nguyễn Thị Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, do bà Đ không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi hai con chung nên tạm thời ông Q không phải cấp dưỡng nuôi hai con chung.

- Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu theo quy định pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngàyy 07/3/2019 ông Hoàng Xuân Q có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt ông Hoàng Xuân Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và đã được Ủy ban nhân dân xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 23/9/2011 đúng theo quy định tại Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q trình bày quá trình vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cải vã, bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay. Bà Nguyễn Thị Đ xin ly hôn ông Hoàng Xuân Q, ông Hoàng Xuân Q vẫn còn tình cảm với bà Nguyễn Thị Đ, ông Q không đồng ý ly hôn với bà Nguyễn Thị Đ.

Tại biên bản xác minh ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa: Trưởng ấp L, xã T, thành phố B cung cấp: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q quá trình chung sống tại D5, đường D, khu 80, ấp L, xã T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai có phát sinh mâu thuẫn do ông Q có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài, không lo cho gia đình. Về quan hệ con chung, tài sản chung, nợ chung: đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Xét mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q đã xảy ra, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cho bà Nguyễn Thị Đ được ly hôn với ông Hoàng Xuân Q.

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q có 02 con chung cháu Hoàng Xuân H, sinh ngày 26/9/2012 và cháu Hoàng Khôi A, sinh ngày 14/6/2016. Ly hôn baø Nguyễn Thị Đ có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A, bà Đ không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi hai con chung. Ông Hoàng Xuân Q có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A, ông Q không yêu cầu bà Đ cấp dưỡng nuôi hai con chung. Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q đều có nguyện vọng nuôi hai con chung cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A, bà Đ và ông Q đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi hai con chung, từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay bà Đ và ông Q sống ly thân, cháu H sống với bà Đ, cháu A sống với ông bà, nội. Hiện ông Q đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, để đảm bảo sự phát triển của cháu H và cháu A nên giao cháu Hoàng Xuân H và cháu Hoàng Khôi A cho bà Nguyễn Thị Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, do bà Đ không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi hai con chung nên tạm thời ông Q không phải cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Ông Hoàng Xuân Q không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về việc giải quyết tranh chấp và nghĩa vụ chịu án phí của bà Nguyễn Thị Đ là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 203, 220, 227, khoản 1 Điều 228, 266, 271

v khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Áp dụng Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ đối với ông Hoàng Xuân Q về việc “Xin ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Đ được ly hôn với ông Hoàng Xuân Q.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị Đ và ông Hoàng Xuân Q có 02 con chung cháu Hoàng Xuân H, sinh ngày 26/9/2012 và cháu Hoàng Khôi A, sinh ngày 14/6/2016.

Giao hai con chung cháu Hoàng Xuân H, sinh ngày 26/9/2012 và cháu Hoàng Khôi A, sinh ngày 14/6/2016 cho bà Nguyễn Thị Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông Hoàng Xuân Q không cấp dưỡng nuôi hai con chung.

Ông Hoàng Xuân H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm bà Nguyễn Thị Đ nộp theo biên lai số 0003527 ngày 19/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai được tính trừ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Hoàng Xuân Q có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 25/04/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:27/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về