Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 27/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 19/7/2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 231/2019/TLST-HNGĐ ngày 14/6/2019 về việc:“Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/7/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phùng Thị H, sinh năm 1995;

Nơi ĐKNKTT: Tổ 5, khu Bạch Đằng, phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh;

Chỗ ở hiện nay: Thôn Vĩnh Thái, xã Hồng Thái Đông, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh;

Nghề nghiệp: Công nhân - Công ty TNHH Regina Miracle Iiternatinal Việt Nam, có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1995;

Nơi ĐKNKTT: Tổ 5, khu Bạch Đằng, phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh;

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh từ ngày 14/12/2018;

Nghề nghiệp: Không, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 22/5/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phùng Thị H trình bày: Tôi và anh Nguyễn Anh T xây dựng gia đình với nhau từ năm 2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh ngày 26/12/2016. Trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 3 tháng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại nhà bố mẹ anh T tại tổ 5, khu Bạch Đằng, phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc sống chung của vợ chồng chỉ có hạnh phúc được khoảng 6 tháng đầu, sau khi tôi sinh con thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do anh T chơi bời, nghiện chất ma túy, không quan tâm và không có trách nhiệm gì với vợ con. Bản thân tôi không có lỗi gì, tôi và anh T đã nhiều lần nói chuyện với nhau và tìm nhiều cách để khắc phục mâu thuẫn nhưng đều không có kết quả. Tôi và anh T đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay, trong thời gian sống ly thân anh T vi phạm pháp luật đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh chờ đi chấp hành án. Tôi xét thấy không còn tình với anh T nữa, tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh T để tôi ổn định cuộc sống. Tôi và anh T có một con chung là Nguyễn Thành Long, sinh ngày 01/8/2016. Khi ly hôn, tôi xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, hiện nay tôi đang làm công nhân Công ty TNHH Regina Miracle Iiternatinal Việt Nam, mức thu nhập 6.000.000 đồng/tháng cùng với sự giúp đỡ của bố mẹ đẻ tôi, tôi đảm bảo lo được cuộc sống của hai mẹ con. Với điều kiện hiện nay của anh T, tôi không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 25/6/2019 và đơn đề nghị ngày 25/6/2019, bị đơn anh Nguyễn Anh T trình bày: Tôi kết hôn với chị Phùng Thị H từ năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau 3 tháng. Sau khi kết hôn, vợ chồng tôi sống chung tại nhà của bố mẹ tôi ở phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc sống chung của chúng tôi hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do chúng tôi bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 10/2017 không còn quan hệ tình cảm gì với nhau nữa. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, tôi có theo bạn bè sử dụng chất ma túy, ngày 14/12/2018, tôi bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; ngày 10/5/2019, tôi bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù, hiện nay tôi đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh chờ đi chấp hành án. Chị H xin ly hôn tôi, tôi hoàn toàn nhất trí, đề nghị Tòa án giải quyết để chúng tôi ổn định cuộc sống. Tôi và chị H có một con chung là Nguyễn Thành Long, sinh ngày 01/8/2016. Khi ly hôn, với điều kiện hiện nay của tôi, tôi đồng ý để chị H nuôi dưỡng con chung, sau khi chấp hành án xong về địa phương tôi sẽ có trách nhiệm với con chung còn hiện nay tôi không có điều kiện để cấp dưỡng cho con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phùng Thị H, quan điểm của bị đơn anh Nguyễn Anh T như nêu trên. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phùng Thị H cũng như quan điểm của anh Nguyễn Anh T. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Cuộc hôn nhân giữa chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Anh T là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Thạch, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh ngày 26/12/2016. Về thời gian vợ chồng hạnh phúc sau đó mới phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn như chị H và anh T trình bày nêu trên tuy có mâu thuẫn nhưng cả chị H và anh T cùng xác định nguyên nhân mâu thuẫn một phần là do anh T chơi bời, nghiện chất ma túy, đã vi phạm pháp luật. Chị H xét thấy không còn tình cảm với anh T, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T để ổn định cuộc sống; anh T đồng ý ly hôn với chị H. Chị H và anh T có một con chung là Nguyễn Thành Long, sinh ngày 01/8/2016. Chị H có quan điểm xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Anh T đồng ý với quan điểm của chị H về phần nuôi con chung. Chị H và anh T đều xác định không có tài sản chung, nợ chung.

[2] Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi chị H và anh T cư trú trước khi hai người sống ly thân, được đại diện khu phố cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân của chị H và anh T về cơ bản đúng như chị H và anh T đã trình bày nêu trên.

[3] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như nêu trên, đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh T; đối với yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thành Long, sinh ngày 01/8/2016 của chị H được anh T chấp nhận nên chấp nhận yêu cầu xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị H. Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con nên không đề cập. Chị H và anh T đều xác định không có tài sản chung, nợ chung nên không đề cập.

[4] Về án phí: Chị Phùng Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Phùng Thị H đối với anh Nguễn Anh T. Chị Phùng Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Anh T.

Giao cho chị Phùng Thị H có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Thành Long, sinh ngày 01/8/2016 cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Anh T không phải cấp dưỡng cho con; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Về án phí: Chị Phùng Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004619 ngày 14/6/2019 của Chi cục Thi thành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Chị H đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt các đương sự, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:27/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về