Bản án 27/2018/HSST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2018/HSST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13/3/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội; Toà án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2018/HSST ngày 03/01/2018 đối với bị cáo:

Lê Đức N; sinh năm: 1968; ĐKNKTT: A, phường T, quận H, Hà Nội; Nơi ở: C, quận B, Hà Nội; Nghề nghiệp: không; Văn hoá: 10/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Lê Đức T (Đã chết) và bà Hoàng Thị Đ (Đã chết); Có vợ: Phan Thị H; có 02 con đã thành niên; Tiền sự: Có 02 tiền sự năm 1985 về hành vi trộm cắp tài sản, đã hết thời hiệu. Tiền án: Ngày 06/08/2008 bị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 15/01/2010 (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 23/11/2017 (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13h30’ ngày 23/11/2017, bị cáo N đi bộ từ nhà đến khu vực bến xe Kim Mã để tìm mua heroin về sử dụng. N đã mua của đối tượng tên H 01 gói heroin bọc bằng nilon màu trắng, kích thước 2x3 cm với giá 1 triệu đồng. Mua xong, N cất gói heroin vào túi quần bên phải rồi đi về nhà. Khoảng 14h00’ cùng ngày, khi N đi bộ đến trước cửa nhà số 12 ngõ 21 Kim Mã, phường Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội, thì bị Tổ công tác Công an phường Kim Mã kiểm tra phát hiện, thu giữ gói heroin nêu trên. Ngoài ra còn thu giữ 01 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, mặt nhẫn đính đá màu đen cùng 300.000 đồng tiền Việt Nam.

Tại Bản kết luận giám định số 7004/KLGĐ-PC54 ngày 13/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng thu giữ của Lê Đức N là ma túy loại heroin, trọng lượng: 0,764 gam.

Lời khai của bị cáo N phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối tượng bán heroin cho N, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được lai lịch nên không có căn cử để xử lý.

Đối với chiếc nhẫn kim loại màu vàng, mặt đính đá màu đen nói trên là tài sản cá nhân của bị cáo N, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc nhẫn cho chị Phan Thị H (vợ của N) để quản lý.

Tại cáo trạng số 14/CT-VKS ngày 01/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình đã truy tố bị cáo N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo N về tội tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Xử phạt bị cáo N mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy số ma túy và tịch thu sung quỹ nhà nước 300.000đ đã thu giữ của bị cáo.

Tại phiên tòa: Bị cáo N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản niêm phong tang vật, kết luận giám định và phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình truy tố bị cáo về hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận những chứng cứ buộc tội của Viện kiểm sát và đề nghị của Kiểm sát viên về quan điểm giải quyết vụ án.

Những chứng cứ trên đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 14h00’ ngày 23/11/2017, tại khu vực trước cửa nhà số 12 ngõ 21 Kim Mã, phường Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội, Bị cáo N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,764 gam heroin với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường Kim Mã bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi phạm tội của bị cáo N là nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là chất gây nguy hại cho con người và cho xã hội, nó làm tha hóa đạo đức, lối sống, làm mất lý trí con người, làm tan vỡ nhiều hạnh phúc gia đình; đồng thời ma túy còn là mầm mống cho các loại tội phạm khác, như tội trộm cắp, tội cướp, cướp giật... Do vậy, nhà nước thống nhất quản lý và có chính sách tuyên truyền rộng khắp trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người phòng tránh. Do vậy đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi lượng hình phạt: Xét bị cáo N, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, nên để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cũng xét quy định có lợi cho người phạm tội căn cứ theo khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015. Theo quy định tại khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: …c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”. Xét xử theo quy định tại điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có lợi cho người phạm tội nên cần được áp dụng làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo N không có nghề nghiệp ổn định nên xét không áp dụng phạt tiền làm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng của vụ án đã bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình gồm: 01 gói niêm phong bên trong có 0,764 gam heroin, đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Tịch thu sung công số tiền 300.000 đồng thu giữ của bị cáo theo điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Đức N phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999. Điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 3 Điều 7; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015;

Áp dụng khoản 2 điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Xử phạt: Lê Đức N 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 23/11/2017.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa 0,764 gam heroin đã qua giám định, có chữ ký của cán bộ giám định và Lê Đức N, theo biên bản bàn giao vật chứng số 36 ngày 02 tháng 02 năm 2018.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 02/02/2018, nộp vào tài khoản số: 3949.106.1691 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, tại kho bạc nhà nước quận Ba Đình.

Bị cáo Lê Đức N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2018/HSST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về