Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 27/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

-Ngày 30 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 142/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồng N - sinh năm 1996

Nơi ĐKNKTT: Khu 1, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay: Khu 3, xã P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

Bị đơn: Anh Trần Anh Đ - sinh năm 1990

Địa chỉ: Khu 1, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời trình bày tiếp theo tại Toà án, chị Nguyễn Hồng N trình bày: Chị và anh Trần Anh Đ kết hôn vào ngày 08 tháng 6 năm 2015 tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng với gia đình anh Đ tại khu 1, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng thường xảy ra cãi nhau và anh Đ thường xuyên đi xa nhà, không quan tâm vợ, con, anh thường xuyên chơi bời nên chị đã đưa 2 con chung về nhà mẹ đẻ tại khu 3, xã P, thị xã P để sinh sống. Từ đầu năm 2018 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn, chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

-Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Trần Hiền T - sinh ngày 23/4/2013, Trần Đức B - sinh ngày 24/3/2015 và Trần Ngọc A - sinh ngày 01/11/2017. Hiện nay hai con chung là Trần Đức B và Trần Ngọc A đang ở với chị, còn con chung là Trần Hiền T đang ở với anh Đ. Ly hôn, chị xin trực tiếp nuôi hai con chung là Trần Đức B và Trần Ngọc A, còn để anh Đ trực tiếp nuôi con chung là Trần Hiền T. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

-Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

*Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập nhiều lần anh Trần Anh Đ có mặt tại Trụ sở Tòa án để giải quyết việc chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng anh Đ đều vắng mặt không rõ lý do mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập và các thông báo hợp lệ. Như vậy, anh Đ cố tình lẩn tránh, không hợp tác với Tòa án nên không có bản tự khai của anh Đ và Tòa án không tiến hành hòa giải được theo quy định của pháp luật.

*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ có quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Vụ án được thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điều 51, điều 56, điều 81, diều 82 và điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

-Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Hồng N và đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Hồng N được ly hôn anh Trần Anh Đ.

-Về con chung: Xử giao cho chị Nguyễn Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Trần Đức B - sinh ngày 24/3/2015 và Trần Ngọc A - sinh ngày 01/11/2017 và anh Trần Anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Trần Hiền T - sinh ngày 23/4/2013 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

 -Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị N trình bày không có không đề nghị giải quyết nhưng do anh Đ vắng mặt nên các quan hệ này cần tách ra, khi nào có yêu cầu thì giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

-Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Hồng N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, con chung giữa chị Nguyễn Hồng N và anh Trần Anh Đ là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Các đương sự có nơi cư trú tại xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã P theo quy định tại khoản 1 điều 28, khoản 1 điều 35 và khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh Đ không có mặt tại Trụ sở Tòa án để giải quyết vụ án, anh Đ cố tình lẩn tránh, từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, anh Đ không có bản tự khai và Tòa án không tiến hành hòa giải được. Phiên tòa ngày 15/11/2018, bị đơn anh Trần Anh Đ đã được tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh Trần Anh Đ đã được tống đạt hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Trần Anh Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Hồng N và anh Trần Anh Đ tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ vào ngày 08/6/2015 đó là cuộc hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 2 năm, sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống không hợp nhau nên xảy ra cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018, chấm dứt mọi quan hệ. Nay tình cảm vợ chồng không còn, chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Đ. Hội đồng xét xử nhận thấy, chị N và anh Đ đã ly thân, chấm dứt quan hệ, không quan tâm đến nhau. Qua biên bản xác minh và ý kiến của chính quyền địa phương cũng như Hội phụ nữ xã H nơi vợ chồng anh chị chung sống thì mẫu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân như vậy mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị N xin ly hôn anh Đ là có căn cứ và phù hợp quy định tại khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Trần Hiền T - sinh ngày 23/4/2013, Trần Đức B - sinh ngày 24/3/2015 và Trần Ngọc A - sinh ngày 01/11/2017. Hiện nay hai con chung là Trần Đức B và Trần Ngọc A đang ở với chị N, còn con chung là Trần Hiền T đang ở với anh Đ. Anh Đ vắng mặt tại Tòa án nên không có quan điểm về con chung. Mặt khác con chung còn nhỏ, hai con chung đang ở với chị N, một con chung ở với anh Đ, Để không làm sáo trộn cuộc sống của các con chung cũng như tạo điều kiện để các đương sự có điều kiện nuôi dạy con chung phát triển toàn diện và qua ý kiến của chính quyền địa phương và phụ nữ xã H cần giữ nguyên việc nuôi con như hiện nay là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về việc cấp dưỡng nuôi con chung, chị N không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét. Vì vậy, cần xử giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Trần Đức B và Trần Ngọc A còn anh Đ trực tiếp nuôi con chung là Trần Hiền T cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị N trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Quá trình giải quyết vụ án, anh Đ cố tình vắng mặt, không có bản tự khai nên các quan hệ trên không biết có hay không. Do đó, các quan hệ này được tách ra khi nào có yêu cầu thì Tòa án xem xét giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, điều 81, điều 82 và điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử: Cho chị Nguyễn Hồng N được ly hôn anh Trần Anh Đ.

2.Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Trần Đức B - sinh ngày 24/3/2015 và Trần Ngọc A - sinh ngày 01/11/2017, anh Trần Anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Hiền T - sinh ngày 23/4/2013 cho đến khi con chung thành niên và có  khả năng lao động. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Nguyễn Hồng N, anh Trần Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Nguyễn Hồng N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002077 ngày 06/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã P. Chị Nguyễn Hồng N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Ncó mặt có quyền kháng cáo, anh Đ vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:27/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về