TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 27/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 72/2018/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2018 giữa:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Quang Th1, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Tổ 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam. Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Hà Thị Th2, sinh năm 1986.
Địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Tổ 6, thị trấn B, huyện Kim B, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn và trong quá trình xét xử, anh Lê Quang Th1 là nguyên đơn trình bày:
Anh và chị Hà Thị Th2 kết hôn với nhau tự nguyện, có đăng ký ngày 03 tháng 02 năm 2006 tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện Kim B, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại tổ 6, thị trấn B, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi, chửi nhau. Tháng 6 năm 2009, chị Th2 bỏ nhà đi khỏi nơi cư trú cuối cùng là tổ 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam, kể từ đó cho đến nay đã hơn 09 năm chị Th2 không về chung sống cùng anh. Anh không biết chị Th2 đi đâu, làm gì, ở đâu, mặc dù anh đã áp dụng các biện pháp tìm kiếm chị Th2 nhưng không có tin tức gì. Vì vậy, anh đã làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng tuyên bố chị Hà Thị Th2 mất tích theo quy định của pháp luật. Ngày 07/6/2018, Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã mở phiên họp và ra Quyết định số 02/2018/QĐDS-ST chấp nhận yêu cầu của anh, tuyên bố chị Hà Thị Th2 mất tích. Kể từ ngày Tòa án ra quyết định tuyên bố chị Th2 mất tích đến nay chị Th2 vẫn không về chung sống cùng anh và cũng không có mặt ở địa phương. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hà Thị Th2.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Lê Quang Th3, sinh ngày 11/7/2006, cháu Th3 đang ở với anh từ khi chị Th2 bỏ đi. Khi ly hôn, nguyện vọng của anh xin được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Th3 cho đến khi đủ 18 tuổi, lao động tự lập được, anh không yêu cầu chị Th2 cấp dưỡng cho con.
Về con riêng: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Về tài sản chung, tài sản riêng; công nợ; công sức đóng góp; diện tích đất nông nghiệp: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Chị Hà Thị Th2 là bị đơn đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần và niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt.
Tại phiên tòa đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và không thay đổi, bổ sung gì. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án theo đúng quy định của pháp luật và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự; các Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ, phí Tòa án. Xử ly hôn giữa anh Lê Quang Th1 và chị Hà Thị Th2. Về con chung: Giao cháu Lê Quang Th3, sinh ngày 11/7/2006 cho anh Th1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Th3 đủ 18 tuổi, lao động tự lập được. Chị Th2 không phải cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về án phí ly hôn sơ thẩm, quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện của anh Lê Quang Th1 yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với chị Hà Thị Th2 là bị đơn, địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Tổ dân phố số 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Chị Hà Thị Th2 đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần và niêm yết công khai các văn bản tố tụng tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn B và tại nơi cư trú cuối cùng nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hôn nhân: Anh Lê Quang Th1 và chị Hà Thị Th2 kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 03 tháng 02 năm 2006, tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam. Đây là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, anh Th1 và chị Th2 sống tại tổ 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do kinh tế gia đình khó khăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi, chửi nhau. Tháng 6 năm 2009, chị Th2 đã bỏ đi khỏi nơi cư trú cuối cùng là tổ 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Hà Nam, kể từ đó cho đến nay đã hơn 09 năm chị Th2 không về chung sống cùng anh Th1. Anh Th1 không biết chị Th2 làm gì, ở đâu, mặc dù anh đã áp dụng các biện pháp tìm kiếm chị Th2 nhưng cũng không có tin tức gì nên anh Th1 đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng tuyên bố chị Hà Thị Th2 mất tích và được Tòa án chấp nhận theo Quyết định số 02/2018/QĐDS-ST ngày 07/6/2018. Kể từ ngày Tòa án tuyên bố chị Th2 mất tích cho đến nay, chị Th2 vẫn không trở về chung sống cùng anh Th1 và cũng không có mặt ở địa phương. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh Th1, chị Th2 không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh Th1 xin ly hôn chị Th2 là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự.
[3] Về con chung: Anh Th1, chị Th2 có một con chung là cháu Lê Quang Th3, sinh ngày 11/7/2006, cháu Th3 ở với anh Th1 từ năm 2009 đến nay được anh Th1 trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đảm bảo tốt về mọi mặt. Khi ly hôn, nguyện vọng của anh Th1 xin được nuôi con, không yêu cầu chị Th2 cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của anh Th1 là tự nguyện, phù hợp với thực tế và các Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về con riêng: Không có.
[4] Về tài sản chung, tài sản riêng; công nợ; công sức đóng góp; diện tích đất nông nghiệp: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết. [5] Về án phí: Anh Lê Quang Th1 xin ly hôn được Tòa án chấp nhận nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ, phí Tòa án.
[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; Điều 272 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 68 của Bộ luật Dân sự. Các Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ, phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa Anh Lê Quang Th1 và chị Hà Thị Th2.
2. Về con chung: Giao cháu Lê Quang Th3, sinh ngày 11/7/2006 cho anh Lê Quang Th1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi, lao động tự lập được. Chị Hà Thị Th2 không phải cấp dưỡng cho con theo sự tự nguyện của anh Th1.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Án phí: Anh Lê Quang Th1 phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Th1 đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0001399 ngày 25 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Anh Th1 đã nộp đủ.
4. Quyền kháng cáo: Anh Lê Quang Th1 có quyền kháng cáo bản án trongthời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Hà Thị Th2 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 27/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/12/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về