Bản án 270/2021/HSST ngày 17/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 270/2021/HSST NGÀY 17/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 17 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. Biên Hòa mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 253/2021/HSST ngày 23 tháng 4 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2021/QĐXXST-HS ngày 29/4/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tấn T; Tên gọi khác: Út Chịt; Giới tính: Nam; Sinh năm 1996 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: 45, tổ 5, khu phố 9, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1953 (Đã chết) và bà Trần Thị L, sinh năm 1956. Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ tư và chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 05/9/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 18 tháng, được miễn chấp hành vào ngày 26/10/2017.

Bị bắt quả tang tạm giữ ngày 28/12/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 110/LTG ngày 06/01/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tấn T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 14 giờ ngày 28/12/2020, T đi đến khu vực nghĩa địa thuộc tổ 21, khu phố 1, phường H, thành phố B mua của người tên T1 (không rõ lai lịch) 18 tép Heroin và 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Sau khi mua được ma túy, Tài lấy 01 tép Heroin và một ít ma túy đá để sử dụng.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, T cất giấu 17 tép Heroin và gói ma túy đá trên vào trong túi quần phía trước bên trái T đang mặc rồi đi đến trước nhà không số thuộc tổ 20, khu phố 1, phường H, thành phố B thì bị Công an phường H kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra, Nguyễn Tấn T khai nhận hành vi phạm tội như trên.

* Vật chứng: 17 đoạn ống nhựa hàn kín đều chứa chất bột màu trắng (Ký hiệu M1) và 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (Ký hiệu M2) được niêm phong có chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Tấn T và hình dấu tròn đỏ Công an phường An Hòa.

* Tại kết luận giám định số 2996/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng (M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,5075 gam, loại: Heroin (Heroine).

- Mẫu tinh thể màu trắng (M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3010 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 273/CT/VKSBH ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án từ 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng sự thật, đúng người, đúng tội, bị cáo không có ý kiến gì đối với Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục số 01); Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu (bút lục số 02); Kết luận giám định (Bút lục số 08); Lời khai bị can (Bút lục số 35-42); Lời khai của người chứng kiến (Bút lục số 44-45). Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 28/12/2020, tại khu vực tổ 20, khu phố 1, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Tấn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,5075 gam Heroin và 0,3010 gam Methamphetamine thì bị Công an phường H phát hiện bắt quả tang. Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 18 tháng nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn phạm tội. Do đó, cần xử bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[5]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

[6] Đối với người đàn ông tên T1 (chưa rõ lai lịch) đã bán ma túy cho Nguyễn Tấn T: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T 01 (Một) năm 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định tại gói niêm phong số 2996/KLGĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/4/2021 Của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Biên Hòa).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Tấn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Tấn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 270/2021/HSST ngày 17/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:270/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về