Bản án 265/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 265/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN 

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 657/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 275/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 08 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 234/2019/QĐST-HGNĐ, ngày 22 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn N; Nơi cư trú: Thôn 8, xã L, huyện T, thành phố H; Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Lê Thị N; Nơi cư trú: Thôn 5, xã L, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Pvà chồng ông Lê Văn T; Nơi cư trú: Thôn 5, xã L, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Lê Văn Ntrình bày: Anh và chị Lê Thị N kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L vào năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chung sống với nhau tại thôn 8, xã L, huyện T, thành phố H. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn và căng thẳng nhất vào năm 2012. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế, nên vợ chồng thường hay xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau, do mâu thuẫn nên chị Nđã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ đó đến nay không còn quan tâm nhau. Nay anh Nnhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê Thị N.

Về con chung: Trong quá trình chung sống anh và chị Nkhông có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh và chị Lê Thị Nkhông có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng có nợ ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị P(bố mẹ đẻ chị N) số tiền 10.000.000 đồng là tiền trả công cho thợ chát nhà, nay ly hôn anh Lê Văn Nđồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ cho bà P và ông Toản, anh Nkhông yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra vợ chồng không còn khoản nợ nào khác.

Bị đơn là chị Lê Thị Nvắng mặt tại phiên tòa, song tại Biên bản lấy lời khai ngày 05 tháng 9 năm 2019 chị Lê Thị Ntrình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Văn Nkết hôn với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L vào năm 2010, sau khi cưới vợ chồng về sinh sống cùng bố mẹ anh Ntại thôn 8, xã L, huyện T, thành phố H được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Nhay đánh đập chị nhiều lần nên chị Nkhông thể chung sống được và đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 5, xã L, huyện T, thành phố H ở từ năm 2012 đến nay vợ chồng không còn quan tâm nhau. Nay anh Lê Văn N xin ly hôn chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Về con chung: Chị và anh Nkhông có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị và anh Nkhông có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Quá trình chung sống bố mẹ chị (ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị P) có cho vợ chồng vay số tiền 10.000.000 đồng tiền công thợ chát nhà, nay anh Nxin ly hôn chị Nyêu cầu anh Nphải có trách nhiệm trả nợ cho bố mẹ chị. Ngoài ra vợ chồng không còn khoản nợ nào khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T và Nguyễn Thị Pvắng mặt tại phiên tòa, song tại Biên bản lấy lời khai ngày 05 tháng 9 năm 2019 bà Nguyễn Thị Ptrình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng bà là bố mẹ đẻ của chị Lê Thị N, chị Nvà anh Nkết hôn với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L vào năm 2010, sau khi cưới vợ chồng chung sống tại thôn 8, xã L, huyện T, thành phố H cùng bố mẹ anh N, quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn nên chị Nđã bỏ về nhà ở từ năm 2012 đến nay và có nói trong quá trình chung sống do anh Nchửi bới, đánh đập nên chị Nkhông thể tiếp tục chung sống. Nay anh Lê Văn Nxin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Về con chung: Chị Nvà anh Nkhông có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị N và anh Nkhông có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Sau khi chị Nvà anh Nkết hôn vợ chồng bà có đứng ra thuê thợ chát nhà giúp vợ chồng anh Nvà có trả công thợ hết 10.000.000 đồng nay anh Nvà chị Nly hôn, quan điểm của bà P trình bày anh Lê Văn Nđã đồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ cho vợ chồng bà nên vợ chồng bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết về vay nợ chung trong vụ án này, sau này anh Lê Văn N không trả hoặc trả không đầy đủ thì vợ chồng bà P và ông Toản sẽ có đơn đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác. Vì điều kiện công việc ông Toản bận đi làm nên không đến Tòa án được, quan điểm của bà P chính là quan điểm của chồng bà (ông Lê Văn T).

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn anh Lê Văn Nđã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn là chị Lê Thị N, ông Lê Văn T, bà Nguyễn Thị Pđã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, nên chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Lê Thị Ntiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Lê Văn Nvà đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ nhân nhân: Cho anh Lê Văn N được ly hôn chị Lê Thị N; Về con chung: Anh Lê Văn Nvà chị Lê Thị Nkhông có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: Anh Lê Văn Nkhông có yêu cầu, chị Lê Thị Nvắng mặt song đã có quan điểm trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; Về vay nợ chung: Nguyên đơn anh Lê Văn Ntrình bày trong quá trình chung sống anh có vay nợ ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị P(bố mẹ đẻ chị N) số tiền 10.000.000 đồng tiền trả công thợ chát nhà, nay anh và chị Nly hôn anh đồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ và không yêu cầu Tòa án giải quyết, Người có quyền lợi nghĩa vụ bà Nguyễn Thị Ptrình bày anh Lê Văn Nđã đồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ cho vợ chồng bà nên vợ chồng bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết về vay nợ chung trong vụ án này, sau này anh Lê Văn Nkhông trả hoặc trả không đầy đủ thì vợ chồng bà P và ông Toản sẽ có đơn đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn chị Lê Thị Nvà Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, song chị Nvà ông Toản đều vắng mặt không có quan điểm trình bày rõ về việc vay nợ chung của anh Lê Văn Nvà chị Lê Thị N, vì vậy Kiểm sát viên không đề cập giải quyết về vay nợ chung trong vụ án này.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Văn N; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bị đơn và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Xét quan hệ hôn nhân giữa anh Lê Văn Nvà chị Lê Thị Nkết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 122, ngày 13/10/2010 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nên dẫn đến vợ chồng thường hay xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau, do mâu thuẫn nên vợ chồng anh Nvà chị Nđã sống ly thân nhau từ năm 2012 đến nay không còn quan tâm nhau. Nay để ổn định cuộc sống anh Nđề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê Thị N. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng chị Lê Thị Nđều vắng mặt không có lý do, song đã có quan điểm trình bày xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, anh Nxin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Nvà chị Nđã kéo dài và không còn khả năng đoàn tụ được nữa. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Văn N, cho anh Lê Văn Nđược ly hôn chị Lê Thị N.

[3] Về con chung: Anh Lê Văn Ntrình bày vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn chị Lê Thị Nvắng mặt song đã có lời khai trình bày quá trình chung sống vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung:

Anh Lê Văn Ntrình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lê Thị Nvắng mặt, song đã có lời khai trình bày chị và anh Nkhông có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về vay nợ chung:

Nguyên đơn anh Lê Văn Ntrình bày trong quá trình chung sống vợ chồng có vay nợ ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị P(bố mẹ đẻ chị N) số tiền 10.000.000 đồng tiền trả công thợ chát nhà, nay anh và chị Nly hôn anh đồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ và không yêu cầu Tòa án giải quyết, Người có quyền lợi nghĩa vụ bà Nguyễn Thị Ptrình bày anh Lê Văn Nđã đồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ khoản nợ cho vợ chồng bà nên vợ chồng bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết về vay nợ chung trong vụ án này, sau này anh Lê Văn Nkhông trả hoặc trả không đầy đủ thì vợ chồng bà P và ông Toản sẽ có đơn đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn chị Lê Thị Nvà Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, song chị Nvà ông Toản đều vắng mặt không có quan điểm trình bày về việc vay nợ chung của anh Lê Văn Nvà chị Lê Thị N, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về vay nợ chung trong vụ án này.

[6] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Anh Lê Văn Nphải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51,Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Lê Văn N được ly hôn chị Lê Thị N.

2. Về án phí: Anh Lê Văn Nphải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002907, ngày 16 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố H. Anh Lê Văn Nđã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 265/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:265/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về