Bản án 264/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 264/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 299/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 319/2020/QĐ XXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Gia Th, sinh năm 2001, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng hộ khẩu ký thường trú: Nhà số B, đường BTT, Khu phố S, phường TT, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Nguyễn Thị Hạnh Tr; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 23-6-2020, tạm giam ngày 26-6-2020 “có mặt”.

*Bị hại: Chị Trần Thị Hoài Th1, sinh năm 1998. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp PH, xã PP, huyện PH, tỉnh HG; nơi ở: Nhà số M, đường TL 10, Khu phố C, phường TT, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh “vắng mặt”.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn B, sinh năm 1978. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số B, đường BTT, Khu phố S, phường TT, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh“có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khi Trần Gia Th điều khiển xe môtô hiệu Honda, loại Wave, màu đỏ, biển số 55B5-4736 chạy trên đường tìm tài sản để chiếm đoạt bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì: Lúc khoảng 07 giờ 10 phút ngày 23/6/2020, Th đến trước nhà số 12-14, Đường Số N, Khu phố T, phường TT, quận BT nhìn thấy chị Trần Thị Hoài Th1 đang điều khiển xe môtô hiệu Hoanda, loại Vision, màu đỏ, biển số 50N1-377.44 lưu thông phía trước cùng chiều, trong túi quần bên phải của chị Th1 có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, model Y81, loại 16GB, màu đen nhô ra ngoài nên Th cho xe chạy vượt lên áp sát bên phải chị Th1 và dùng tay trái giật lấy được chiếc điện thoại của chị Th1 rồi tăng ga xe tẩu thoát. Ngay lúc này, chị Th1 tri hô lên và chạy xe đuổi theo được khoảng 200 mét đã tông xe vào xe của Th nên làm cho cả 02 té xuống đường thì được người dân hỗ bị bắt giữ Th cùng với vật chứng giao cho Công an phường Tân Tạo xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền và tại đây Th đã khai nhận toàn bộ hành vi như vừa đã nêu.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Gia Th đã khai nhận, khi bị cáo sử dụng chiếc xe môtô hiệu Hoanda, loại Wave, màu đỏ, biển số 55B5-4736 làm phương tiện chạy trên đường tìm tài sản để chiếm đoạt bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì, bị cáo nhìn thấy chị Trần Thị Hoài Th1 đang điều khiển xe lưu thông phía trước cùng chiều có để chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, model Y81, loại 16GB, màu đen trong túi quần bên phải nhô ra ngoài nên bị cáo cho xe chạy vượt lên áp sát bên phải chị Th1 rồi dùng tay trái giật lấy được chiếc điện thoại của chị Th1 và tăng ga xe bỏ chạy tẩu thoát nhưng chỉ được 01 đoạn thì bị bắt giữ cùng vật chứng giao cho công an giải quyết nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời không có ý kiến gì về giá trị tài sản đã chiếm đoạt, trách nhiệm dân sự và việc giải quyết vật chứng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn B thừa nhận chiếc xe môtô biển số 55P5-4736, số máy RPKFM1P39FMB-00010600, số khung RPKD CB1PKAH 000600 mà bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội là do ông mua vào đầu năm 2020 của người đàn ông không rõ lai lịch rao bán trên mạng xã hội với giá 1.500.000 đồng và không có giấy đăng ký xe. Tuy con ông là bị cáo tự ý lấy xe đi làm phương phạm tội nhưng vì xe không có nguồn gốc hợp pháp nên không có yêu cầu trả lại.

Bản cáo trạng số 275/CT-VKS ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Gia Th ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội cướp giật tài sản”, theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã đưa ra ý kiến: Bị cáo Trần Gia Th đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản của chị Trần Thị Hoài Th1 một cách công khai rồi tẩu thoát, tội phạm đã hoàn thành, tài sản có giá trị là 2.200.000 đồng và đã sử dụng xe môtô làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 03 năm đến 04 năm tù về “Tội cướp giật tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có ai yêu cầu gì nên không có ý kiến; còn về phần vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước chiếc xe môtô biển số 55B5-4736.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa bổ sung gì thêm về hành vi đã bị truy tố và đồng thời cũng không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Trần Gia Th tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 07 giờ 10 phút ngày 23/6/2020, bị cáo đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, model Y81, loại 16GB, màu đen của chị Trần Thị Hoài Th1 tại trước nhà số 12-14, Đường Số 55, Khu phố 8, phường Tân Tạo, quận Bình Tân một cách công khai rồi tẩu thoát. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Wave, màu đỏ, biển số 55B5-4736 làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” và theo Kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thì chiếc điện thoại di động của chị Thương có giá trị là 2.200.000 đồng. Do đó, bị cáo Trần Gia Th đã phạm “Tội cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, những người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường, hình ảnh trích xuất từ camera, biên bản khám xét dấu vết trên thân thể bị cáo, vật chứng thu giữ được, định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, khá táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người khác chiếm đoạt trái phép tài sản một cách công khai ngay trên đường phố giữ ban ngày là không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền mua ma túy sử dụng nên cần xử bị cáo với mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tuy tại Tòa hôm nay, bị hại chị Trần Thị Hoài Th1 đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt nhưng theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì, chị Th1 đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo, model Y81, loại 16GB, màu đen và 01 chiếc xe môtô hiệu Honda, loại Vision, màu đỏ, biển số 50N1-377.44 của chị Trần Thị Hoài Th1, Công an phường Tân Tạo, quận Bình Tân đã thu hồi và giao trả lại cho chị Thương nên không xét. Còn 01 chiếc xe môtô biển số 55P5-4736, số máy RPKFM1P39FMB-00010600, số khung RPKDCB1PK AH 000600 mà bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội đã khai, chiếc xe này là của cha bị cáo tên Trần Văn B và bị cáo tự ý lấy sử dụng. Ông B khai, xe do ông mua vào đầu năm 2020 của người đàn ông không rõ lai lịch rao bán trên mạng xã hội với giá 1.500.000 đồng và không có giấy đăng ký xe; tuy ông không biết bị cáo lấy xe đi làm phương phạm tội nhưng không có yêu cầu nhận lại. Qua xác minh, biển số xe được cấp cho xe hiệu YMHMAXNEO, loại ba bánh và do chị Dương Thị Bích Ph đứng tên sở hữu và chị Ph đã bán lại cho người không rõ lai lịch từ năm 2010; còn theo số máy, số khung xe thì xe không có trong dữ liệu đăng ký xe lưu thông; Cơ quan điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu thực tế của xe nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai đến để giải quyết. Xét do xe không có nguồn gốc hợp pháp nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước; riêng biển số xe 55P5-4736 (đang gắn theo xe), không được phép sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Bị cáo Trần Gia Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Gia Th phạm “Tội cướp giật tài sản”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Trần Gia Th 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23-6-2020.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc xe môtô số máy RPKFM1P39FMB-00010600, số khung RPKDCB1PKAH 000600. Tịch thu tiêu hủy biển số xe 55P5-4736 (đang gắn theo xe).

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK21/037TAM ngày 29/10/2020)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Trần Gia Th phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Gia Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại chị Trần Thị Hoài Th1 vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 264/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:264/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về