Bản án 264/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 264/2020/HS-PT NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 297/2020/TLPT-HS ngày 13/8/2020 đối với bị cáo Nguyễn Xuân Đ và đồng phạm về tội “Giết người”. Do có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 48/2020/HS-ST ngày 10/07/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: NGUYỄN XUÂN Đ; Giới tính: Nam;

Sinh năm 1991 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe;

Chức vụ, nơi làm việc: Đảng viên - tỉnh Đắk Lắk (Quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng số 11 ngày 29/8/2019);

Con ông Nguyễn Thái B sinh năm 1967 và bà Võ Thị X sinh năm 1968; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị S, chưa có con chung; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/8/2019 cho đến nay (có mặt).

2. Họ tên: NGUYỄN THANH Q; Giới tính: Nam; Sinh năm 1999 tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: tỉnh Đắk Lắk;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Làm nông;

Con ông Nguyễn Văn H sinh năm 1976 và bà Mai Thị T sinh năm 1977;

Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/3/2020 cho đến nay (có mặt).

* Người bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Xuân Đ và Nguyễn Thanh Q: Luật sư Nguyễn Đình H - Văn phòng Luật sư T, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk.Có mặt.

Đa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

* Người bị hại: Anh Trần Văn T – sinh năm 1988. Có mặt. Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T (chị gái của bị hại).Có mặt.

* Người bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho người bị hại: Ông Đặng T – Luật sư văn phòng Luật TNHH MTV Đ, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk, là cộng tác viên Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk.Có mặt.

Đa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00 phút ngày 16/8/2019, Nguyễn Thanh Q (sinh năm 1999), nơi cư trú tỉnh Đắk Lắk điều khiển xe mô tô biển số 47K1-157.77 chở Nguyễn Xuân Nam (sinh năm 1995) ở cùng thôn đến tiệm hớt tóc “L” do chị Nguyễn Thị B (sinh năm 1976) làm chủ tại thôn 4, xã K, huyện K để N cạo mặt, gội đầu. Sau khi cạo mặt, gội đầu xong N và Q ra về thì N nhìn thấy ngoài lề đường trước sân tiệm hớt tóc “L” có chị Nguyễn Thị B; Phạm Văn B (sinh năm 1989), nơi cư trú thôn 2, xã K, huyện K; Trần Đình N (sinh năm 1988), nơi cư trú thôn 11, xã K, huyện K; Nguyễn Thanh L (sinh năm 1972), nơi cư trú ; Trần Văn T (sinh năm 1988), nơi cư trú thôn 3, xã H, huyện K đang ngồi uống bia và hát Karaoke thì Nguyễn Xuân N đi sang ngồi uống bia cùng, còn Q lấy xe mô tô đi về nhà. Khoảng 15 phút sau, Nguyễn Xuân N điện thoại nói Q đến đón thì Q điều khiển xe mô tô đến và vào ngồi cùng mọi người uống bia. Lúc này, Phạm Văn B cầm 01 cục đá lạnh uống bia ném cho chị B làm nước đá văng trúng người Nguyễn Xuân N thì N với B xảy ra cãi nhau, B tức giận dùng tay tát 01 cái trúng mặt N thì N chạy đến bờ rào tiệm hớt tóc “L” nhặt 01 cục gạch để ném B nhưng chị B đã can ngăn nên N vứt cục gạch đi, N và B tiếp tục cãi, chửi nhau, thấy vậy T chạy đến dùng tay đánh N rồi ôm vật N ngã xuống sân. Thấy N bị đánh, Q điều khiển xe mô tô về nhà Nguyễn Xuân Đ (là anh trai của N) gọi: “Anh ơi dậy nhanh đi chứ mấy thằng kia đánh thằng N gần chết dưới kia rồi”, Đ hỏi: “Ở đâu”, Q nói: “Ở dưới quán chị Linh đấy” rồi Q lấy 01 con dao rựa của nhà Đ mang ra chỗ để xe mô tô thì Đ cũng vừa đến nên Q đưa con dao rựa cho Đ cầm, Đ cầm dao ngồi lên sau xe rồi Q chở Đ đến trước nhà chị B. Đến nơi, Q dừng xe mô tô đứng cách cổng nhà chị B khoảng 05 - 07m, còn Đ nhảy xuống xe đi đến gặp N và nói: “Đi về đi” nhưng N không về, N đứng ở cổng nhà chị B chửi tục và nói: “Tôi có làm gì mà mấy ông đánh tôi” thì T ở trong sân nhà chị B chạy ra dùng tay đánh nhau với N, T vật N ngã xuống sân trước cổng nhà chị B và nằm đè lên người N thì chị B, B, Trần Đình N vào can ngăn. Thấy T nằm đè trên người N và đánh N thì Đ chạy đến cầm dao rựa chém một nhát từ phía sau trúng vào đầu T, T hét lên một tiếng rồi ngã ra đất, lúc này Nguyễn Xuân N vùng dậy cùng Đ lên xe mô tô để Q chở về nhà ông Nguyễn Thái Bình (là bố đẻ của Đ và N) tại , còn T được đưa đi cấp cứu. Sau đó, N đã tự nguyện giao nộp con dao rựa mà Đ đã sử dụng chém anh T cho Cơ quan Công an.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường nơi tiến hành khám nghiệm tại khu vực trước nhà chị Nguyễn Thị B thuộc thôn 4, xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Trung tâm hiện trường của vụ án là khu vực cổng ra vào nhà chị B, khu vực cổng ra vào có hai trụ xây có kích thước: Cao 163cm, vuông 40cm, hai trụ cách nhau 2,62m, có 04 cánh cổng làm bằng kim loại, mỗi cánh rộng 65cm, cao 1,6m. Cách trụ cổng bên phải 01m theo hướng vào nhà chị B và cách cửa chính ra vào nhà chị B 6,5m là vị trí nơi nạn nhân bị chém, nhưng không phát hiện dấu vết gì. Mở rộng hiện trường không phát hiện vật, dấu vết gì liên quan đến vụ án.

* Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số: 1005/TgT-TTPY ngày 18/8/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận tỷ lệ thương tích của Trần Văn T:

Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương vùng thái dương đỉnh phải kích thước 20cm x 5cm, đã khâu; Khuyết não vùng thái dương đỉnh phải (dập não, xuất huyết vùng thái dương đỉnh phải); Xuất huyết dưới nhện vùng trán, thái dương đỉnh phải; Khuyết sọ đỉnh phải. Vật tác động: Vật sắc. Cơ chế hình thành vết thương: Vết thương vùng thái dương đỉnh phải là do tác động trực tiếp của vật sắc hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Sức khỏe bị giảm do thương tích gây nên hiện tại là: 67%.

* Tại Bản kết luận giám định Pháp y bổ sung về thương tích số: 296/TgT- TTPY ngày 12/3/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo vùng thái dương đỉnh phải, nằm trên vùng xương sọ bị khuyết có kích thước 19cm x 0,5cm; Khuyết xương sọ vùng thái dương đỉnh phải kích thước 15cm x 5cm, đáy phập phồng; Khuyết não vùng thái dương đỉnh phải (dập não, xuất huyết vùng thái dương đỉnh phải); Xuất huyết dưới nhện vùng trán, thái dương đỉnh phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 67%.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã thu giữ: 01 con dao rựa có cán tròn, trong đó phần cán bằng kim loại dài 9cm, phần cán bằng tre tròn dài 29cm đã bị cháy đen một phần, lưỡi dao bằng kim loại màu đen xám dài 29,5cm phần đầu lưỡi dao có móc nhọn, nơi lưỡi dao rộng nhất là 4,6cm, nơi lưỡi dao hẹp nhất là 3,2cm; 01 chiếc xe mô tô gắn biển số 47K1-157.77 (là biển số giả);

01 biển số xe mô tô 47K1 - 175.22.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKS-P2 ngày 07 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã truy tố các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2020/HSST ngày 10/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Đ 17 (Mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 23/8/2019.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khon 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Q 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 03/3/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng các Điều 46,48 Bộ luật hình sự năm 2015; các Điều 585,587,590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Công nhận sự thoả thuận về việc bồi thường thiệt hại giữa bị hại với các bị cáo. Cụ thể, các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại anh Trần Văn T tổng số tiền 230.000.000 đồng ( Hai trăm ba mươi triệu đồng). Trong đó, Nguyễn Xuân Đ phải bồi thường 138.000.000 đồng, được khấu trừ số tiền đã bồi thường 70.000.000 đồng, còn phải bồi thường tiếp số tiền 68.000.000 đồng; Nguyễn Thanh Q phải bồi thường số tiền 92.000.000 đồng, được khấu trừ số tiền đã bồi thường 10.000.000 đồng, còn phải tiếp tục bồi thường 82.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm; quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/7/2020 bà Trần Thị Tần là đại diện theo ủy quyền của người bị hại kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường.

Ngày 15/7/2020 bị cáo Nguyễn Xuân Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 16/7/2020 bị cáo Nguyễn Thanh Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm cho các bị cáo một phần hình phạt. Về kháng cáo của bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm cho bị hại phần giảm thu nhập.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết mới cho bị cáo Nguyễn Xuân Đ là có giấy khen của cấp Trung đoàn khi bị cáo còn phục vụ trong quân đội, nhân thân tốt, có đóng góp cho địa phương (có xác nhận của chính quyền, đoàn thể địa phương); đối với bị cáo Nguyễn Thanh Q có bồi thường thêm ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên toà hôm nay, người bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cho rằng về phần hình sự trong vụ án không có ý kiến gì, riêng về phần dân sự đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị hại các khoản bồi thường, trong đó có yêu cầu cấp dưỡng cho hai con của bị hại khoảng 552 triệu đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, xem xét ý kiến của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Xuân Q thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Toà án cấp sơ thẩm xét xử là đúng, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị được giảm hình phạt. Đại diện theo uỷ quyền của bị hại- chị Trần Thị Tần giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị tăng mức bồi thường.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Chỉ vì những nguyên cớ nhỏ nhặt, trong khi ngồi uống rượu với một số người tại trước nhà chị Nguyễn Thị B, Nguyễn Văn N đã xảy ra mâu thuẫn và đánh nhau với anh Trần Văn T, thấy N bị đánh nên Nguyễn Thanh Q là bạn của N chạy xe máy về nhà ông Nguyễn Thái Bình (là bố ruột của N) gọi Nguyễn Xuân Đ (là anh trai của N) báo cho Đ biết, rồi Q lấy 01 con dao rựa đưa cho Đ cầm và chở Đ đến chỗ N. Tại đây, Đ nói N đi về, nhưng N không về mà N tiếp tục cãi vã, xô xát đánh nhau với anh T, thấy anh T nằm đè lên người N thì Đ không do dự mà cầm dao rựa chạy đến chém một nhát từ phía sau trúng vào đầu anh T. Hậu quả anh Trần Văn T bị tổn hại sức khỏe 67%. Hành vi mà bị cáo dùng dao rựa, trực tiếp chém từ phía sau vùng thái dương đầu của bị hại là vùng trọng yếu của cơ thể con người, thì bị cáo phải nhận thức được hậu quả chết người tất yếu sẽ xảy ra, nhưng bị cáo vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, anh T không chết là do được mọi người đưa đi cấp cứu kịp thời. Trong khi đó, giữa bị cáo với bị hại không hề có mâu thuẫn gì trước đó, nên hành vi của bị cáo sử dụng con dao rựa là hung khí nguy hiểm chém từ phía sau tới, trúng vào đầu của bị hại, là thể hiện tích chất côn đồ. Với hành vi phạm tội đó, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo, thấy rằng: Các bị cáo đều là những người có đầy đủ năng lực hành vi và nhận thức, nhưng vì ý thức xem thường pháp luật, xem nhẹ tính mạng của con người, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này, các bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội với vai trò, mức độ là khác nhau.

Đi với Nguyễn Xuân Đ là người sử dụng dao rựa trực tiếp chém vào đầu anh T, gây thương tích 67% cho anh T.

Đi với Nguyễn Thanh Q: Mặc dù bị cáo không trực tiếp đánh anh T, nhưng bị cáo là người chủ động về nhà Đ để thông báo cho Đ về việc N (em trai Đ) bị đánh, đồng thời chuẩn bị hung khí là dao rựa đưa cho Đ cầm và chở Đ đến địa điểm phạm tội. Nên vai trò đồng phạm của bị cáo là giúp sức tích cực cho bị cáo Đ thực hiện hành vi phạm tội. Khi xét xử sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Sau khi phạm tội bị cáo Đ và Q đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo Đ đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại số tiền 70.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Q đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại được 10.000.0000 đồng, nhằm để khắc phục một phần hậu quả, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra cấp sơ thẩm đã áp dụng cho các bị cáo về việc phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15, Điều 57 Bộ luật hình sự và tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi, hậu quả vụ án và vai trò của các bị cáo.Tuy nhiên trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Xuân Đ có xuất trình giấy khen của cấp Trung đoàn khi bị cáo còn đang phục vụ trong quân đội, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng chưa được Toà án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo. Mặt khác , bị cáo Nguyễn Xuân Đ có nhân thân tốt, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương có đóng góp trong công tác Hội cựu chiến binh tại địa phương ( có xác nhận của Công an xã K ngày 5/6/2020; xác nhận của Hội cựu chiến binh xã K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk ngày 5/6/2020). Đối với bị cáo Nguyễn Thanh Q, trong giai đoạn phúc thẩm đã có bồi thường thêm cho gia đình bị hại (giấy nhận tiền ngày 19/9/2020, giữa người giao là bà Mai Thị T (mẹ bị cáo Nguyễn Thanh Q, người nhận là bà Trần Thị Tần ( chị ruột của bị hại Trần Văn T) và tại phiên toà bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng trong giai đoạn phúc thẩm các bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, đo đó chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

[4] Xét kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường của chị Trần Thị Tần- đại diện hợp pháp của bị hại, thấy rằng trong quá trình giải quyết vụ án, bị hại yêu cầu bồi thường tổng cộng 113.500.000, trước khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo có đơn yêu cầu bồi thường 672.000.000 đồng nhưng tại phiên toà sơ thẩm bị hại và các bị cáo đã thoả thuận với nhau với tổng số tiền bồi thường cho bị hại là 230.000.000 đồng bao gồm các khoản thiệt hại như: chi phí gia đình thuê xe chở bị hại đi Bệnh viện, mua thuốc điều trị, tiền bồi dưỡng sức khoẻ, tổn thất tinh thần, tiền mất thu nhập trong thời gian nằm viện và các chi phí hợp lý khác. Xét thấy đây là sự thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật nên Toà án cấp sơ thẩm công nhận là đúng. Nay chị Trần Thị Tần kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường là không có căn cứ để giải quyết, vì việc bồi thường đã được các bị cáo và bị hại thoả thuận bồi thường ở giai đoạn sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật. Riêng về yêu cầu các bị cáo cấp dưỡng cho hai con của bị hại chưa thành niên thì Toà án cấp sơ thẩm chưa giải quyết mà tách ra để giải quyết bằng một vụ dân sự khác khi bị hại có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật. Nội dung này chưa được Toà án cấp sơ thẩm giải quyết nên Toà án cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.

Từ những phân tích và lập luận trên đây, thấy rằng kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm cho các bị cáo một phàn hình phạt, như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm hôm nay. Kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại không có cơ sở nên không được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết 326/NQ-UBTVQHK14 về án phí, lệ phí Toà án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị ( về án phí hình sự sơ thẩm,án phí dân sự sơ thẩm, xử lý vật chứng, quyền yêu cầu thi hành án ) có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của chị Trần Thị Tần- đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự.

1.Về hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Đ 16 (Mười sáu) năm tù, về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 23/8/2019.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 15; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khon 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Q 12 (Mười hai) năm tù, về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 03/3/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng các điều 46, 48 Bộ luật hình sự năm 2015; các điều 585, 587, 590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Công nhận sự thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại giữa bị hại với các bị cáo. Cụ thể, các bị cáo Nguyễn Xuân Đ, Nguyễn Thanh Q phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại anh Trần Văn T tổng số tiền số tiền 230.000.000 đồng (hai trăm ba mươi triệu đồng). Trong đó, Nguyễn Xuân Đ phải bồi thường 138.000.000 đồng, được khấu trừ số tiền đã bồi thường 70.000.000 đồng đã bồi thường, còn phải bồi thường tiếp số tiền 68.000.000 đồng; Nguyễn Thanh Q phải bồi thường số tiền 92.000.000 đồng, được khấu trừ số tiền đã bồi thường 10.000.000 đồng, còn phải tiếp tục bồi thường 82.000.000 đồng (Được trừ đi 10.000.000 đồng đã bồi thường ở giai đoạn phúc thẩm, còn lại tiếp tục bồi thường 72.000.000 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015.

3. Về án phí phúc thẩm hình sự:

- Bị cáo Nguyễn Xuân Đ phải và bị cáo Nguyễn Thanh Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

534
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 264/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội giết người

Số hiệu:264/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về