Bản án 262/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 262/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 872/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 327/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Võ Thị G, sinh năm 1982. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp X, xã Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Nguyễn Văn S, sinh năm 1968. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp X, xã Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 19 tháng 8 năm 2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Võ Thị G trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn S cưới nhau năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vào ngày 20/5/2002. Đến năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Cuộc sống hôn nhân không hạnh P, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên Chị xin ly hôn với anh S.

Về con chung: Quá trình chung sống, Chị và anh S có hai con chung tên Nguyễn Võ Phước T, sinh ngày 03/9/2003 và Nguyễn Võ Minh P, sinh ngày 09/12/2008, hai con hiện đang sinh sống với chúng tôi. Khi ly hôn, Chị yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu anh S cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị nêu không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn S có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, tại Bản tự khai ngày 23/9/2019 anh S trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị G về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn. Nay, chị G xin ly hôn thì Anh không đồng ý vì còn thương vợ. Vợ chồng không có mâu thuẩn gì lớn, chỉ có hiểu lầm nhỏ, anh đã xin lỗi vợ rất nhiều lần nên đề nghị vợ cho cơ hội để vợ chồng hàn gắn.

Về con chung: Có hai con chung tên Nguyễn Võ Phước T, sinh ngày 03/9/2003 và Nguyễn Võ Minh P, sinh ngày 09/12/2008, hai con hiện đang sinh sống với Anh. Nếu ly hôn, Anh yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu chị G cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh Nguyễn Văn S, anh S không đến Tòa án nhưng có bản tự khai và có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp công khai chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Chị Võ Thị G khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn S; anh S hiện đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Tân Hội, xã Đức Lập Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Công an xã xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị G, bị đơn anh S có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị G và anh S chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Lập Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An vào ngày 20/5/2002 nên hôn nhân giữa Anh Chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, chị G cho rằng năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Cuộc sống hôn nhân không hạnh P, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên Chị xin ly hôn với anh S.

Đi với anh S, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của chị G nhưng anh S không tham dự phiên tòa. Anh S có đơn xin vắng mặt. Anh S cho rằng vợ chồng không có mâu thuẩn gì lớn, chỉ có hiểu lầm nhỏ, anh đã xin lỗi vợ rất nhiều lần nên đề nghị vợ cho cơ hội để vợ chồng hàn gắn.

Xét thấy tại phiên tòa hôm nay, anh S, chị G vắng mặt, chứng tỏ Anh Chị không có T chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của Anh Chị không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị G đối với anh S là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Chị và anh S có hai con chung tên Nguyễn Võ Phước T, sinh ngày 03/9/2003 và Nguyễn Võ Minh P, sinh ngày 09/12/2008. Xét thấy chị G, anh S có tranh chấp quyền nuôi dưỡng con chung, để đảm bảo sự phát triển bình thường và theo nguyện vọng của hai cháu thấy rằng cần buộc chị G giao hai con chung cho anh S nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Anh S không yêu cầu chị G cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Chị G, anh S nêu tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Chị G, anh S nêu không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Chị G phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị G đối với anh Nguyễn Văn S về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị G được ly hôn với anh Nguyễn Văn S.

- Về con chung: Buộc chị G có trách nhiệm giao hai con chung tên Nguyễn Võ Phước T, sinh ngày 03/9/2003 và Nguyễn Võ Minh P, sinh ngày 09/12/2008 cho anh S nuôi dưỡng. Chị G không cấp dưỡng nuôi con vì anh S không yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Chị G phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003397 ngày 19/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An, chị G đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 262/2019/HNGĐ-ST ngày 16/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:262/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về