Bản án 262/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 262/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 504/2018/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2018 về tranh chấp Ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 396/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị B – sinh năm 1988 (Có mặt) Cư trú tại: Ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Võ Hoàng L – sinh năm 1984 (Có mặt) Cư trú tại: Ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về hôn nhân: Chị Hồ Thị B và anh Võ Hoàng L kết hôn vào ngày 01 tháng 6 năm 2007 có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau. Lúc đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng đến tháng 4 năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do bất đồng về quan điểm nên thường hay cự cải, Anh L đánh đập chị rất tàn nhẫn,làm cho chị phải nhập viện điều trị một thời gian dài, chị đã về nhà cha mẹ ruột sống từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay, sau đó Nay chị xét thấy tình cảm gia đình không còn hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C giải quyết cho chị được ly hôn với anh Võ Hoàng L. Anh L thừa nhận có đánh chị B, nhưng chỉ hù dọa chứ không đánh đập tàn nhẫn như chị B trình bày, trước yêu cầu của chị B anh không đồng ý, anh yêu cầu được đoàn tụ.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị B và Anh L có với nhau 02 con chung tên Võ Hồ T, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2009 và Võ Tiến C, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2011 hiện nay con đang sống với Anh L. Khi ly hôn chị B yêu cầu con theo ai người đó nuôi, người không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung và nợ riêng: Chị B và Anh L xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tòa án nhận định:

[1] Tranh chấp giữa chị Hồ Thị B và anh Võ Hoàng L là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc Ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Anh Võ Hoàng L có địa chỉ cư trú tại ấp Đ, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau. Do đó Tòa án nhân dân huyện C thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Nhận định của Tòa án về nội dung tranh chấp của vụ án: Về hôn nhân: Chị B và Anh L kết hôn ngày 01 tháng 06 năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện C, tỉnh Cà Mau. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật HNGĐ năm 2014 thì chị Hồ Thị B có quyền yêu cầu giải quyết việc ly hôn. Yêu cầu của chị B đã được Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và pháp luật tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Cà Mau tiến hành hòa giải tại Tòa án theo quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tại biên bản hòa giải ngày 15 tháng 11 năm 2018 Anh L không đồng ý ly hôn với chị B. Do đó Tòa án căn cứ vào Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Xét thấy tại đơn khởi kiện và tại phiên tòa chị B cho rằng nguyên nhân mâu thuẩn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm trong cuộc sống nên chị và anh không thể tiếp tục sống chung với anh L được nữa nên yêu cầu ly hôn với anh L. Tại phiên tòa anh L đã trình bày và nhận thiếu sót nhưng chị B cương quyết xin ly hôn và khẳng định vợ chồng không còn tình cảm với nhau vìu chị đã chịu đựng quá giới hạn và không thể hàn gắn tình nghĩa vợ chồng. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh L đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hồ Thị B.

Về con chung: Chị B xác định vợ chồng có với nhau được 02 con chung tên Võ Hồ T, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2009 và Võ Tiến C, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2011 hiện nay con đang sống với Anh L. Khi ly hôn chị B yêu cầu con theo ai người đó nuôi, người không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng nuôi con.Hội đồng xét xử xét thấy các cháu T và C đã đủ đội tuổi theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân vafgia đình năm 2014 về việc hỏi ý kiến của các cháu có nguyện vọng được sống với ai khi cha, mẹ các cháu ly hôn. Tại biên bản ghi lời khai ngày 15 tháng 11 năm 2018 thì các cháu đều có nguyện vọng được sống với mẹ. Đây là nguyện vọng của các cháu nên Hội đồng xét xử giao các cháu cho chị Hồ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh Võ Hoàng L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị B xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Tòa án không đặt ra xem xét. Nếu sau này chị B và Anh L có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì chị B và Anh L đều có quyền khởi kiện thành vụ kiện dân sự khác theo quy định pháp luật.

[3] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm Chị Hồ Thị B phải nộp 300.000 đồng theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Hồ Thị B đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0004866 ngày 25 tháng 10 năm 2018. Chị Hồ Thị B đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các điều 28; 35; 39; 147, 227, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Các điều 9, 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81 và 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

 [1] Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Hồ Thị B ly hôn với anh Võ Hoàng L.

 [2] Về con chung: Buộc anh Võ Hoàng L giao cháu Võ Hồ T, sinh ngày 11 tháng 9 năm 2009 và Võ Tiến C, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2011 cho chị Hồ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên.

Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

 [3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị B và Anh L tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó Tòa án không đặt ra xem xét. Nếu sau này chị B và Anh L có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì chị B và Anh L đều có quyền khởi kiện thành vụ kiện dân sự khác theo quy định pháp luật.

[4] Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Hồ Thị B phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng. Chị Hồ Thị B đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0004866 ngày 25 tháng 10 năm 2018. Chị Hồ Thị B đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp Bản án (Quyết định) được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a ,7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 262/2018/HNGĐ-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:262/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về