Bản án 26/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội đánh bạc

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK

 BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Thị L, sinh ngày 09 tháng 10 năm 1967 tại Tp. H, nơi cư trú: Số nhà 48 đường N, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 10/12; Con ông Phạm Trung K1 (đã chết) và bà Đinh Thị D, bị cáo có chồng là Nguyễn Quang N1, sinh năm 1964 và có 02 người con, con ớn nhất, sinh năm 1985 và con nh nhất, sinh năm 1993. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 18/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện K phạt 03 tháng 06 ngày tù về tội “Đánh bạc”. Ngày 30/01/2021 thực hiện hành vi đánh bạc bị bắt tạm giữ từ ngày 30/01/2021 đến ngày 04/02/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi kh i nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1960, vắng mặt.

Trú tại: Tổ dân phố 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

+ Ông Nguyễn Thanh X, sinh năm 1962, vắng mặt.

Trú tại: Số nhà 66 đường N2, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

+ Anh Trần Trung H1, sinh ngày 18/9/2005, vắng mặt. Trú tại: Thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

+ Anh Trương Hồng P, sinh ngày 27/11/2005, vắng mặt. Trú tại: Thôn 4, xã B1, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

+ Anh Hà Vĩnh K2, sinh ngày 06/8/2003, vắng mặt.

Trú tại: Tổ dân phố 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 30/01/2021, Phạm Thị L đang ở nhà tại tổ dân phố 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thì Nguyễn Văn V, trú tại tổ dân phố 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đến gặp Phạm Thị L để ghi số đề với số tiền 30.000 đồng, Sau đ Nguyễn Thanh X trú tại tổ dân phố 7, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đến gặp Phạm Thị L để ghi số đề với số tiền 56.000 đồng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, Trần Trung H1, trú tại thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Trương Hồng P, trú tại thôn 4, xã B1, huyện K, tỉnh Đắk Lắk và Hà Vĩnh K2, trú tại tổ dân phố 6, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk đến quán Internet của Phạm Thị L để chơi game; Sau đó cả 03 người này lần ượt gặp Phạm Thị L để ghi số đề. Phạm Thị L ghi cho Trần Trung H1 04 số đề gồm số 79, 17, 26 mỗi số đánh bao ô 40 điểm và số 29 đánh bao ô 50 điểm, thành tiền cá cược là 2.380.000 đồng; ghi cho Trương Hồng P 03 số đề gồm số 72, 79 mỗi số đánh bao ô 40 điểm và số 57 đánh bao ô 20 điểm, thành tiền cá cược à 1.400.000 đồng; ghi cho Hà Vĩnh K2 04 số đề gồm số 89, 47, 99 mỗi số đánh bao ô 30 điểm và số 54 đánh bao ô 40 điểm, thành tiền cá cược à 1.820.000 đồng. Phạm Thị L ghi các số đề mà Trương Hồng P và Hà Vĩnh K2 đã ghi vào òng bàn tay trái của mình để lưu lại thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ số tiền 6.151.000 đồng và 01 cây bút bi nước màu xanh.

Hình thức đánh số đề và cách tính thắng thua được quy định như sau: Số đề là lấy số từ kết quả xổ số của các công ty xổ số kiến thiết một trong các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên mở thưởng vào 17 giờ 30 phút hằng ngày để cá cược thắng thua với người chơi đề. Đánh đề hai số nghĩa là đặt cược theo hai số cuối của kết quả xổ số từ giải 8 đến giải đặc biệt, tỷ lệ thắng khi trúng đề là 1 ăn 70; đánh ba số là dựa vào kết quả ba số cuối, từ giải 7 đến giải đặc biệt của kết quả xổ số, tỷ lệ thắng cược 1 ăn 500.

Cáo trạng số 23/CT-VKS-HS ngày 22/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Thị L về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ uật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị L đã thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc như nội dung cáo trạng, bị cáo khai nhận ngày 30/01/2021 bị cáo đã đánh bạc bằng hình thức số đề với một số con đề với tổng số tiền là 5.686.000 đồng, bị bắt khi chưa có kết quả xổ số, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, vì chồng đau yếu chữa bệnh lâu ngày nên bị cáo nảy sinh ý định đánh đề kiếm tiền lo trang trải cuộc sống.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Thị L tử 01 năm đến 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ. Bị cáo được miễn khấu trừ thu nhập.

Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng nộp Ngân sách Nhà nước.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 6.151.000 đồng của bị cáo dùng vào việc đánh bạc.

Tịch thu, tiêu hủy 01 cây bút mực màu xanh bị cáo sử dụng vào việc ghi đề.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ uật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó , các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, phù hợp với các tài iệu, chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Ngày 30/01/2021 bị cáo Phạm Thị L đánh bạc được thua bằng tiền với một số người khác, tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 5.686.000 đồng, hình thức đánh bạc là ghi số đề. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Phạm Thị L phạm tội đánh bạc, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Điều 321 của Bộ Luật hình sự quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

……………………………….

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo à người có đầy đủ khả năng nhận thức, buộc phải biết việc đánh bạc trái phép dưới mọi hình thức được thua bằng tiền đều bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, động cơ tư lợi, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do mình gây ra.

[3] về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn; chồng bị cáo thường xuyên đau ốm, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có khả năng tự giáo dục, cải tạo, là lao động chính trong gia đình có chồng đang mắc bệnh nan y. Thiết nghĩ không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo được tự giáo dục, cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Cần phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng nộp Ngân sách Nhà nước nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm.

Đối với những người đánh đề với bị cáo, do số tiền dùng vào việc đánh bạc chưa đủ yếu tố định ượng theo quy định của Điều luật, không có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nên Công an xử lý hành chính là phù hợp.

[4] Về xử ý vật chứng: Căn cứ các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 5.686.000 đồng bị cáo dùng vào việc đánh bạc, được trừ vào số tiền 6.151.000 đồng thu giữ của bị cáo. Bị cáo được nhận lại số tiền 465.000 đồng.

Tịch thu, tiêu hủy cây bút mực màu xanh bị cáo sử dụng vào việc ghi đề.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị L 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Thị L số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) nộp Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tich thu, nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 5.686.000 của bị cáo dùng vào việc đánh bạc, được trừ vào số tiền 6.151.000 đồng thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo Phạm Thị L số tiền 465.000đ (Bốn trăm sáu năm nghìn đồng). Tại biên lai thu tiền số 60AA/2021/0003359 ngày 27/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.

Tịch thu, tiêu hủy 01 cây bút bi nước màu xanh là tang vật của vụ án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K với Chi cục thi hành án dân sự huyện K ngày 27/4/2021) Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Thị L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 26/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về