Bản án 26/2021/DS-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 26/2021/DS-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số 258/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-DS ngày 12 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1968.

Trú tại: Nhà trọ số A, đường N, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng B.

Trú tại: Số 36, thôn G, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

3. Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1987. Trú tại: Số G, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Nguyên đơn và người làm chứng có mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 24/7/2020, bản tự khai và lời khai tại phiên tòa nguyên đơn bà Vũ Thị H trình bày: Do quen biết, vào ngày 27/5/2019 bà cho bà Nguyễn Thị Hồng B vay 140.000.000đ, hai bên không viết giấy vay tiền, mục đích vay để đáo hạn ngân hàng, khoản vay không lãi, thời hạn vay khoảng 7 ngày. Đến hạn trả nợ, bà đã đòi nhiều lần bà B không trả tiền cho bà và bà B có viết Giấy mượn tiền (không ghi ngày tháng) và ký tên cam kết mỗi tháng trả 7.000.000đ trong thời gian 20 tháng thì trả hết nợ. Tuy nhiên bà B không có thiện chí trả nợ cho bà, cố tình trốn tránh và không liên lạc trong mấy tháng vi phạm cam kết trả tiền hàng tháng cho bà. Việc vay tiền giữa bà và bà Nguyễn Thị Hồng B có bà Nguyễn Thị Bích N làm chứng. Khi vay chỉ có bà và bà B thỏa thuận và giao nhận tiền, không có liên quan đến chồng của bà B là ông Bùi Văn N1 nên bà không yêu cầu ông N1 có trách nhiệm liên đới cùng bà B trả nợ. Nay bà Vũ Thị H khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Hồng B trả nợ gốc 140.000.000đ và không yêu cầu trả tiền lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng B được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc; không giao nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án.

Người làm chứng, bà Nguyễn Thị Bích N trình bày: Bà có quen biết với bà Vũ Thị H và bà Nguyễn Thị Hồng B. Bà có chứng kiến việc bà H cho bà B vay số tiền 140.000.000đ vào ngày 27/5/2019 và việc bà B viết giấy nhận nợ số tiền 140.000.000đ.

Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt vì vậy Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt và thông báo kết quả phiên họp cho bà Nguyễn Thị Hồng B được biết. Do bà Nguyễn Thị Hồng B vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng:

Việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền thụ lý đúng quy định tại các Điều 28, 29, 39, 40 và 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; việc xác minh thu thập chứng cứ giao nhận chứng cứ đúng quy định từ Điều 93 và 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trình tự thụ lý, giao nhận thông báo thụ lý và các văn bản liên quan cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng đồng thời tống đạt cho các đương sự trong vụ án đúng quy định tại Điều 195, 196 và 197 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thời hạn xét xử theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Nguyễn Thị Hồng B trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 140.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp: Giữa bà Vũ Thị H và bà Nguyễn Thị Hồng B xác lập giao dịch dân sự vay tài sản tại Giấy mượn tiền (Giấy không ghi ngày tháng do bị đơn viết), theo đó bà Vũ Thị H cho bà Nguyễn Thị Hồng B vay số tiền 140.000.000đ. Do bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên các bên phát sinh tranh chấp. Xác định đây là vụ án “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vụ án thụ lý số 258/2020/TLST-DS ngày 06 tháng 8 năm 2020 do sai sót về ngày thụ lý được sửa chữa thành thụ lý số 258/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2020.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn G, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng và tại Giấy mượn tiền địa chỉ của bị đơn được ghi trong giao dịch tại xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Căn cứ khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án dân sự về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản” giữa nguyên đơn bà Vũ Thị H và bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng B thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Hồng B đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án, không thuộc trường hợp bất khả kháng. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Hồng B.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy rằng: Việc bà Vũ Thị H và bà Nguyễn Thị Hồng B xác lập hợp đồng vay tài sản có xảy ra trên thực tế. Theo nội dung Giấy mượn tiền thể hiện bà Vũ Thị H cho bà Nguyễn Thị Hồng B vay số tiền 140.000.000đ, thỏa thuận mỗi tháng từ ngày mùng 1 đầu tháng tới 15 dương lịch trả 7.000.000đ. Quá trình thực hiện hợp đồng vay tài sản, bị đơn không trả tiền nợ gốc nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ gốc 140.000.000đ. Còn bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án và không giao nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án. Do vậy có đủ cơ sở khẳng định bị đơn chưa thanh toán khoản tiền nợ gốc 140.000.000đ cho nguyên đơn cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc 140.000.000đ là phù hợp, đúng pháp luật.

Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả số tiền lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn cụ thể là:140.000.000đ x 5% = 7.000.000đ.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, 220, 227, 228, 264, 266, 267 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị H kiện tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản.

Buộc bà Nguyễn Thị Hồng B có nghĩa vụ trả cho bà Vũ Thị H số tiền nợ gốc 140.000.000đ (Một trăm bốn mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải trả khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí:

Buộc bà Nguyễn Thị Hồng B phải chịu 7.000.000đ (Bảy triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Vũ Thị H số tiền 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) đã tạm nộp theo biên lai thu số /2017/0000432 ngày 07/8/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2015; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2015.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Nguyễn Thị Hồng B vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 26/2021/DS-ST ngày 31/03/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:26/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về