Bản án 26/2020/HS-ST ngày 30/06/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Đoàn Văn N, sinh năm: 1976, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú: Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn T và bà Ngô Thị Q; vợ: Phạm Thị H (đã ly hôn), con: có 04 người; tiền án: không có; tiền sự: không có; nhân thân: Năm 2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội: “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” chấp hành xong hình phạt tù ngày 31-8-2005. Bị cáo bị bắt truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19 tháng 5 năm 2020 đến nay. Bị cáo có mặt.

Bị hại: Bà Đoàn Thị A, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Ấp h, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đoàn Ngọc P, sinh năm: 1994. Địa chỉ: Ấp h, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ, ngày 15-3-2019, Đoàn Văn N đến nhà bà Đoàn Thị A, ngụ Ấp h, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh hỏi mượn xe mô tô biển số 70C1- 276.08 do con bà A là chị Đoàn Ngọc P làm chủ sỡ hữu để đi đến nhà vợ tại Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh để lấy tiền, bà A đồng ý. Sau khi mượn được xe, N nảy sinh ý định đem xe mô tô đi cầm cố lấy tiền đánh bạc. N điều khiển xe mô tô biển số 70C1-276.08 đến dịch vụ cầm đồ tại Thành phố Bavet, tỉnh Svayrieng, Vương quốc Campuchia cầm cố với số tiền 28.000.000 đồng, lấy tiền đánh bạc thua hết. Bà A chờ không thấy N mang xe đến trả nên cùng P đi tìm và gặp N. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, chị P đến dịch vụ cầm đồ mà N cầm cố xe, chuộc lại xe mô tô biển số 70C1-276.08 với giá tiền là 32.500.000 đồng, chị Đoàn Ngọc P đã bán xe lại cho người khác. Ngày 18-4-2019 bà A đến Công an xã Lợi Thuận trình báo và yêu cầu xử lý Đoàn Văn N.

Kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTTTHS ngày 09-5-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 (một) xe mô tô (đã qua sử dụng) có biển số 70C1-276.08; nhãn hiệu Honda; số loại: Vario; màu sơn: trắng; dung tích xilanh 149 cm3; số máy KP4E1099710; số khung 4114JK099069; xe đăng ký lần đầu ngày 26-2-2019 (tài sản không thu hồi được), giá trị tài sản là 54.270.000 (Năm mươi bốn triệu hai trăm bảy mươi nghìn) đồng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Không có.

Bà Đoàn Thị A không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Đoàn Văn N không có tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản cáo trạng số: 27/CT-VKSBC ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Đoàn Văn N về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đoàn Văn N về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 175; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Văn N từ 02 (Hai) năm đến 03 (Ba) năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Không có.

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bà Đoàn Thị A không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Ngày 15-3-2019, bị cáo đến nhà bà Đoàn Thị A, ngụ Ấp h, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh hỏi mượn xe mô tô biển số 70C1-276.08 do con bà A là chị Đoàn Ngọc P làm chủ sỡ hữu để đi đến nhà vợ tại Ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh để lấy tiền. Sau khi mượn được xe, bị cáo nảy sinh ý định đem xe mô tô đi cầm cố lấy tiền đánh bạc. Bị cáo điều khiển xe đến dịch vụ cầm đồ tại Thành phố Bavet, tỉnh Svayrieng, Vương quốc Campuchia cầm cố với số tiền 28.000.000 đồng, lấy tiền đánh bạc thua hết. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, chị P đã chuộc lại xe mô tô biển số 70C1-276.08 với giá tiền là 32.500.000 đồng. Ngày 18-4-2019 bà A đến Công an xã Lợi Thuận trình báo và yêu cầu xử lý đối với bị cáo N.

Kết luận định giá tài sản số 27/KL-HĐĐGTTTHS ngày 09-5-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 (một) xe mô tô (đã qua sử dụng) có biển số 70C1-276.08; nhãn hiệu Honda; số loại: Vario; màu sơn: trắng; dung tích xilanh 149 cm3; số máy KP4E1099710; số khung 4114JK099069; xe đăng ký lần đầu ngày 26-2-2019, giá trị tài sản là 54.270.000 (Năm mươi bốn triệu hai trăm bảy mươi nghìn) đồng. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Đoàn Văn N đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố bị cáo Đoàn Văn N là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất an ninh trật tự địa P. Bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo đã xem thường pháp luật, lợi dụng lòng tin của người khác để chiếm đoạt tài sản để thu lợi cho mình. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tính răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 175 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Không có.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bà Đoàn Thị A không yêu cầu bị cáo bồi thường.

[6] Về án phí: Bị cáo Đoàn Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn N phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào Điểm c Khoản 2 Điều 175; Điểm s khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Đoàn Văn N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 5 năm 2020.

2. Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Không có.

- Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bà Đoàn Thị A không yêu cầu bị cáo bồi thường.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đoàn Văn N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HS-ST ngày 30/06/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về