Bản án 26/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 17/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

LÊ THỊ G (Tr), sinh năm 1984 tại Ninh Thuận; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 189D đường HT, phường S, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh;

Chỗ ở trước ngày bị bắt: 240/51A đường C, phường T, thành phố V; Văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Nhân viên chăm sóc da; Cha: Lê Săn, sinh năm 1951; Mẹ: Nguyễn Thị Sạn, sinh năm 1955; có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; chồng tên Trần Văn Hiếu, sinh năm 1982; Có 01 con chung với anh Hiếu sinh 2011;

Hiện chung sống không đăng kí kết hôn và có 01 con chung sinh ngày 24/12/2018 với Văn Phương Vương, sinh năm 1976 (Vương đang chấp hành hình phạt 02 (hai) năm tù về tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”).

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt: 20-11-2019, đến ngày 29-11-2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu thay đổi biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại số 240/51A Nguyễn Hữu Cảnh, phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 20-11-2019, tại trước nhà số 240/2B Nguyễn Hữu Cảnh, phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu, Lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm Biên phòng Cửa khẩu cảng, Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt quả tang Lê Thị G đang tàng trữ trái phép 01 gói ma túy.

Tại cơ quan điều tra, Lê Thị G khai nhận gói ma túy bị cơ quan chức năng thu giữ là do G mua của một người đàn ông tên B (không rõ lai lịch) với giá 150.000 đồng để sử dụng.

Bản kết luận giám định số 388/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 22-11-2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín, được niêm phong trong phong bì màu trắng, có hình dấu của Ban chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu Bà Rịa – Vũng Tàu, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Thượng tá Trương Văn K, Lê Thị G, Vũ Văn Đ, Hoàng Ngọc M, Phạm Xuân Kh gửi đến giám định có khối lượng 0,9312 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Lê Thị G khai nhận hành vi phạm tội như trên, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (gói niêm phong số 388/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 22/11/2019) - 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số Imei 356050036649916 - 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số Imei 35823403533627 - 01 (một) điện thoại Redme số Imei 866638040521874.

- 310.000 đ (ba trăm mười ngàn đồng).

Vật chứng hiện đang do Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 02-3-2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Lê Thị G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP.Vũng Tàu giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo G, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Thị G mức án 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy là tang vật của vụ án đã qua giám định; tịch thu 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số Imei 356050036649916 do liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; trả lại cho bị cáo 02 (hai) chiếc điện thoại di động còn lại đã thu của bị cáo và số tiền 310.000đ (ba trăm mười ngàn đồng).

- Bị cáo Lê Thị G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt do bị cáo đang nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Nên các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 20-11-2019, tại trước nhà số 240/2B đường C, phường T, thành phố V, các lực lượng chức năng về phòng chống ma túy và tội phạm tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phối hợp bắt quả tang Lê Thị G đang tàng trữ trái phép 0,9312 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo Lê Thị G đã đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra là nguy hiểm ; bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết rõ ma túy là chất độc hại; mọi hành vi vi phạm liên quan đến ma túy đều bị pháp luật xử lý rất nghiêm khắc nhưng là con nghiện nên bị cáo bất chấp thực hiện hành vi phạm tội. Đặc biệt, tại phiên tòa, bị cáo khai báo bản thân dùng và nghiện ma túy trong giai đoạn nuôi con nhỏ (01 đến 02 tháng tuổi). Hành vi này ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến bị cáo còn ảnh hưởng đến cả trách nhiệm, khả năng, điều kiện chăm sóc sức khỏe và sự phát triển của con bị cáo. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, đủ mức răn đe giáo dục bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiện đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói ma túy đã qua giám định số 388/GĐMT- PC09(Đ2) ngày 22/11/2019.

- Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động Nokia số Imei 356050036649916 do liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo;

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Redme số Imei 866638040521874; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số Imei 35823403533627 và số tiền 310.000 đ (ba trăm mười ngàn đồng) do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Lê Thị G (Tr) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điêu 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt Lê Thị G: 15 (mười lăm) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án (được khấu trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 20-11-2019 đến ngày 29-11-2019).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 388/GĐMT ngày 22-11- 2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động Nokia số Imei 356050036649916 do liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động Redme số Imei 866638040521874; 01 (một) điện thoại di động Nokia số Imei 35823403533627 và số tiền 310.000 đ (ba trăm mười ngàn đồng) do không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Thực hiện xử lý vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 82/BB.THA ngày 12-3-2020 và Biên lai thu tiền số 0000698 ngày 12-3-2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu).

3. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đông ) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 26/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về