Bản án 26/2020/HSST ngày 13/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 26/2020/HSST NGÀY 13/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2020/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn B; Giới tính: Nam; Sinh năm 1991; Sinh và trú quán: ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 9/12;

- Quan hệ gia đình: Cha: Trần Văn L, sinh năm 1968; nghề nghiệp: làm vườn; Mẹ: Huỳnh Cẩm L1, sinh năm 1968; Nghề nghiệp: làm vườn. Cả hai ngụ cùng địa chỉ với bị cáo. Anh em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Vợ: Lê Thanh M sinh năm 1995, đã ly hôn. Bị cáo có 01 người con sinh năm 2014.

- Tiền án: không.

- Tiền sự: 01 lần, ngày 20/3/2020, bị Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/3/2020 đến ngày 27/3/2020, chuyển tạm giam từ ngày 27/3/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện C.

- Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, (bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Cẩm L1, sinh năm 1968. Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang (có mặt)

2. Bà Đoàn Thị C, sinh năm 1957. Địa chỉ: Ấp H, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang (có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Giảng Tuấn C, sinh năm 1992. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, (vắng mặt)

2. Anh Thái Văn C, sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang, (vắng mặt).

* Vật chứng cần đem ra xem xét tại phiên tòa: Không có.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 07 giờ 30 phút ngày 21/3/2020, Phan Minh Q điều khiển xe mô tô biển số 71AB-007.22 lưu thông trên đường tỉnh lộ 864, chở phía sau Trần Văn B, khi đến ấp B, xã T, huyện C, bị Công an huyện C chặn dừng kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Phan Minh Q đang tàng trữ ma túy trong túi áo khoát bên ngực trái của Q đang mặc trên người. Vật chứng thu giữ được gồm + Xe mô tô biển số 71AB-007.22.

+ Hai bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền xanh một đầu, kích thướt (2,5 x 1,6) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong bì thư màu trắng có dòng chữ: Ủy ban nhân dân xã T, có chữ ký xác nhận của Nguyễn Ngọc C (Điều tra viên), Đỗ Lê N (cán bộ niêm phong), Triệu Minh T (Phó trưởng Công an xã T, huyện C), Giảng Tuấn C và Võ Thành T (người chứng kiến), Phan Minh Q và Trần Văn B (người bị bắt), được niêm phong ký hiệu gói số 01.

+ Hai điện thoại di động (01 cái màu vàng đen hiệu Vivo và 01 cái màu đỏ hiệu Nokia).

+ 01 ống nhựa màu xanh, nhọn 01 đầu.

+ 01 cái nỏ bằng thủy tinh.

+ 01 cái quẹt gas màu đỏ.

+ 04 ống hút bằng nhựa nhiều màu.

+ 05 bịch nilon bên trong không có chứa gì, gồm: 03 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có kích thướt (2,5 x 1,5) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền xanh một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm.

+ Tiền 315.000 đồng (ba trăm mười lăm nghìn đồng).

+ 01 cái hộp hình vuông bằng kim loại màu vàng có kích thướt (13 x 09 x 02) cm.

+ 01 xe mô tô biển số 71AB-007.22.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, Phan Minh Q và Trần Văn B khai nhận như sau: Phan Minh Q và Trần Văn B là bạn bè, cả hai đã nhiều lần hùn tiền mua ma túy để sử dụng chung, mỗi lần hùn mỗi người từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Khoảng 01 giờ ngày 21/3/2020, Q và B cùng đến thị trấn C, huyện C chơi, cả hai thỏa thuận hùn tiền mỗi người 200.000 nghìn đồng để mua ma túy sử dụng chung, B đưa cho Q 200.000 đồng để Q trực tiếp mua ma túy. Q điều khiển xe mô tô biển số 71AB-007.22 chở B đến khu vực cầu C 2, thị trấn C, tại đây Q mua 01 bịch ma túy của một thanh niên có biệt danh “Anh Ba” (chưa rõ họ, tên và địa chỉ) giá 400.000 đồng. Mua được ma túy, Q lấy bịch ma túy ra đổ 01 phần vào cái nỏ và cùng B sử dụng, phần còn lại Q chia ra làm 02 bịch bằng như nhau và đưa cho B 01 bịch, B cầm bịch ma túy xem và đưa lại cho Q tiếp tục cất giữ. Lúc 07 giờ 30 phút ngày 21/3/2020, Phan Minh Q điều khiển xe mô tô biển số 71AB-007.22 chở Trần Văn B về đến ấp B, xã T, huyện C, bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 bịch ma túy.

Theo kết luận giám định số 55/KLGĐ-PC09 ngày 24/3/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Các mẫu tinh thể màu trắng trong 02 gói nilon màu trắng, được hàn kín có viền xanh một đầu, để trong một bì thư màu trắng được niên phong (ký hiệu gói số 01) có các chữ ký ghi họ tên: Phan Minh Q và Trần Văn B (người bị bắt), Nguyễn Ngọc C (Điều tra viên), Đỗ Lê N (cán bộ niêm phong), Giảng Tuấn C và Võ Thành T (người chứng kiến), Triệu Minh Thiện (Phó trưởng Công an xã T và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: Công an xã T – Công an huyện C – tỉnh Tiền Giang; gởi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng là 0,2144 gam, loại Methamphetamine.

Sau khi giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang đã hoàn lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C: Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 55 ghi ngày 24/3/2020, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh T (Giám định viên), Nguyễn Thị Kiều L1 (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Cao L1 (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang, bên trong có 01 (một) gói nilon màu trắng được dán kín, chứa 0,1643 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 02 (hai) vỏ bao gói nilon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKSCL ngày 06 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn B từ 12 đến 18 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về vật chứng:

+ Xe mô tô biển số 71AB-007.22: Qua điều tra xác định là của chị Huỳnh Cẩm L1 sinh năm 1968, ngụ ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang (mẹ của bị can Trần Văn B), chị L1 không biết B sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã trao trả xe mô tô này cho chị Huỳnh Cẩm L1.

+ Trả lại cho bà Đoàn Thị C số tiền 315.000 đồng và 01 cái diện thoại di đông hiệu màu vàng, đen. Trả lại cho bị cáo 01 cái điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ.

Tịch thu, xung quỹ nhà nước các vật chứng:

+ 01 ống nhựa màu xanh, nhọn 01 đầu.

+ 01 cái nỏ bằng thủy tinh.

+ 01 cái quẹt gas màu đỏ.

+ 04 ống hút bằng nhựa nhiều màu.

+ 05 bịch nilon bên trong không có chứa gì, gồm: 03 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có kích thướt (2,5 x 1,5) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền xanh một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm.

+ 01 cái hộp hình vuông bằng kim loại màu vàng có kích thướt (13 x 09 x 02) cm.

+ Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 55 ghi ngày 24/3/2020, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Thị Kiều L1 (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Cao L1 (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang, bên trong có 01 (một) gói nilon màu trắng được dán kín, chứa 0,1643 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 02 (hai) vỏ bao gói nilon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cai Lậy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện bị cáo B đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và đủ cơ sở để cho Hội đồng xét xử kết luận bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ ma túy là chất bị cấm lưu hành trái phép, là chất gây nghiện, người sử dụng ma túy rất khó từ bỏ, nếu sử dụng lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của người nghiện, làm mất dần khả năng lao động, học tập và làm việc. Ma túy là nguồn gốc làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, làm tha hóa lối sống, tạo gánh nặng cho gia đình và xã hội và là tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV. Bị cáo là người đã thành niên nên có đủ khả năng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật cũng như tác hại của nó, lẽ ra phải biết tránh xa tệ nạn này, biết tu dưỡng, rèn luyện để sống có ích, nên nếu không xử lý nghiêm khắc thì không thể phát huy được tính răn đe của pháp luật và phòng chống tội phạm chung cho toàn xã hội nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giúp cho bị cáo có thời gian nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật và cai nghiện ma túy.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự (ngày 20/3/2020, bị Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy).

[6] Về vật chứng:

- Áp dụng điểm khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bà Đoàn Thị C số tiền 315.000 đồng và 01 cái điện thoại di động hiệu Vivo màu vàng, đen. Trả lại cho bị cáo 01 cái điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ do không phải là vật chứng của vụ án.

- Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng:

+ 01 ống nhựa màu xanh, nhọn 01 đầu.

+ 01 cái nỏ bằng thủy tinh.

+ 01 cái quẹt gas màu đỏ.

+ 04 ống hút bằng nhựa nhiều màu.

+ 05 bịch nilon bên trong không có chứa gì, gồm: 03 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có kích thướt (2,5 x 1,5) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền xanh một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm.

+ 01 cái hộp hình vuông bằng kim loại màu vàng có kích thướt (13 x 09 x 02) cm.

+ Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 55 ghi ngày 24/3/2020, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Thị Kiều L1 (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Cao L1 (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang, bên trong có 01 (một) gói nilon màu trắng được dán kín, chứa 0,1643 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 02 (hai) vỏ bao gói nilon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định do là công cụ, phương tiện phạm tôi và không còn giá trị sử dụng .

[7] Người có QLNVLQ Huỳnh Cẩm L1 đã nhận lại xe mô tô biển kiểm soát 71AB-007.22 và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí tòa án;

[9] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Phạt bị cáo Trần Văn B 18 (mười tám) tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là ngày 21/3/2020.

2. Về vật chứng:

- Giao trả lại cho bà Đoàn Thị C số tiền 315.000 đồng và 01 cái điện thoại di động hiệu Vivo màu vàng, đen. Trả lại cho bị cáo Trần văn B 01 cái điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ do không phải là vật chứng của vụ án ngay sau khi án có hiệu luật pháp luật.

- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm:

+ 01 ống nhựa màu xanh, nhọn 01 đầu.

+ 01 cái nỏ bằng thủy tinh.

+ 01 cái quẹt gas màu đỏ.

+ 04 ống hút bằng nhựa nhiều màu.

+ 05 bịch nilon bên trong không có chứa gì, gồm: 03 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có kích thướt (2,5 x 1,5) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền xanh một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm; 01 bịch nilon màu trắng hàn kín xung quanh có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một đầu, có kích thướt (2,5 x 02) cm.

+ 01 cái hộp hình vuông bằng kim loại màu vàng có kích thướt (13 x 09 x 02) cm.

+ Một bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 55 ghi ngày 24/3/2020, có chữ ký in họ tên: Nguyễn Thanh Trường (Giám định viên), Nguyễn Thị Kiều L1 (Trợ lý giám định), chữ ký ghi họ tên Nguyễn Cao L1 (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang, bên trong có 01 (một) gói nilon màu trắng được dán kín, chứa 0,1643 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Methamphetamine và 02 (hai) vỏ bao gói nilon màu trắng đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

4. Về án phí: Bị cáo Trần văn B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HSST ngày 13/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về