Bản án 26/2020/HS-PT ngày 19/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 26/2020/HS-PT NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 24/2020/TLPT-HS ngày 21 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Viết X do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2019/HS-ST ngày 23/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Viết X, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1982, tại Quảng Ngãi.

Trú tại: Tổ dân phố Tr TT B, phường Trương Quang T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng S và bà Dương Thị T; Vợ: Trương Thị Lệ X; Con: Có hai con, sinh năm 2004 và 2011; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị cáo khác là Lê Dương N không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 18-02-2019, chị Trương Thị Lệ X (tên gọi khác Trương Khánh K) và con gái Nguyễn Xuân Th cùng Dương Thẩm V, Trần Thanh T ngồi nhậu tại quán C, thành phố Q thì Nguyễn Viết X (chồng chị X) gọi điện thoại messenger nói chuyện video với chị X. Khi nói chuyện, bị cáo X hỏi chị X đang ở đâu thì chị X nói đang nhậu ở bờ kè và có đi cùng con gái Nguyễn Xuân Th, anh V, anh T. Vì trước đây, bị cáo X và anh V có nhậu nên biết nhau, bị cáo X yêu cầu chị X cho nói chuyện với anh V. Quá trình nói chuyện, bị cáo X có rủ anh V hôm nào qua nhà nhậu, anh V đồng ý. Sau khi nói chuyện điện thoại xong, bị cáo X nhắn tin facebook cho chị X, nội dung nói chị X chở con gái về nhưng chị X không đồng ý. Bị cáo X tiếp tục nhắn tin đe dọa “Lát nữa thằng Mồi nó qua rồi biết” (Mồi là tên gọi thường ngày của Nguyễn Xuân Tr, con chung của bị cáo X và chị X).

Sau đó, Nguyễn Viết X gọi điện cho con trai Nguyễn Xuân Tr. Lúc này, Tr đang ngồi nhậu với Phan Thanh L; Phan Thế B; Lê Dương N; Nguyễn Tấn H và Tạ Đức D tại nhà L. Nguyễn Viết X nói với Tr “Rủ thêm mấy thằng bạn nữa qua đánh hết mấy đứa ngồi nhậu với má mày (Trương Thị Lệ X) cho tao”, vì điện thoại của Tr hư loa nên Tr phải bật loa ngoài nên cả nhóm đều nghe nội dung bị cáo X nói với Tr. Nói xong, Tr nói với L, N, D, H và B “Lấy đồ đi với tao” (tức là lấy mã tấu) thì cả nhóm đồng ý. L điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave, biển kiểm soát: 43H8 - 65XX chở Tr; B điều khiển xe mô tô hiệu SP L, biển kiểm soát 76V3 – 53xx chở Dư cùng đến nhà Nguyễn Quốc để mượn 02 cây mã tấu. H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 76V1-63xx chở N về phòng trọ của N ở thôn CH1, xã Tịnh n T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi lấy 01 cây mã tấu. Lấy mã tấu xong, cả nhóm tập trung tại vòng xoay giao nhau giữa đường V Nguyên iáp và đường Nguyễn Văn Linh thuộc phường Trương Quang T, thành phố Q để xuất phát. Khi cả nhóm của Tr đi ngang qua quán , thấy chị X đang ngồi nhậu với ông V và ông T thì cả nhóm tiếp tục đi đến chân cầu TB để thay người lái xe và Tr đưa cho L 01 cây mã tấu, H chở Tr (Tr ngồi sau cầm cầm 01 cây mã tấu), D chở N (N ngồi sau cầm 01 cây mã tấu) và B chở L (L ngồi sau cầm 01 cây mã tấu). Khi nhóm của Tr đến nơi thì B, H, D đứng trông xe còn L, N, Tr mỗi người cầm 01 cây mã tấu lao xuống quán đánh, chém anh T và anh V. ụ thể, Tr cầm mã tấu chém từ trên xuống trúng vào đỉnh đầu bên trái của anh V, khi Tr tiếp tục chém nhát thứ hai thì anh V đưa tay lên đỡ và kẹp được cây mã tấu, Tr rút mạnh mã tấu về sau gây thương tích ở tay anh V, L chạy đến trở cán cây mã tấu đánh vào lưng anh V, không có thương tích gì. N chạy đến đuổi theo anh T chém anh T 03 nhát nhưng anh T lấy ghế của quán lên đỡ được nên không bị thương tích. Hậu quả, anh V bị thương tích ở đầu và tay, phải đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đà Nẵng.

Tại Kết luận giám định pháp y số: 53/TgT ngày 28/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Ngãi kết luận, anh Dương Thẩm V bị thương tích:

- 01 sẹo cổ - bàn tay trái gây đứt nhánh thần kinh giữa và đứt gân gấp ngón 1 bàn tay trái: 17,55% (cộng lùi);

- 01 sẹo cổ tay trái: 0,82% (cộng lùi);

- 01 sẹo ngón 4 bàn tay trái: 0,81% (cộng lùi);

- 01 sẹo da đầu: 0,80% (cộng lùi). Tổng cộng: 19,98%, làm tròn số = 20%. Tổn thương trên phù hợp vật sắc gây thương tích. Căn cứ Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12-6-2014 của Bộ Y tế quy định, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 20% (hai mươi phần trăm).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2019/HS-ST ngày 23-11-2019, Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết X phạm tội: “ cố ý gây thương tích”.

Áp dụng đ khoản 2 Điều 134; Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 58 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Viết X 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Lê Dương N 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ cố ý gây thương tích”, tuyên về xử lý vật chứng khác, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 29/11/2019, bị cáo Nguyễn Viết X kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Viết X về tội “ cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và xử phạt bị cáo 18 tháng tù là phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo cũng như hậu quả xảy ra. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo nhưng không có tình tiết nào mới để được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết X, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Viết X, thấy rằng: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 18/02/2019, vì bực tức khi chị Trương Thị Lệ X là vợ bị cáo và con gái Nguyễn Xuân Th ngồi nhậu cùng anh Dương Thẩm V và anh Trần Thanh T tại quán C ở bờ kè sông Trà Khúc thuộc Tổ X, phường Lê Hồng P, thành phố Q. Bị cáo đã gọi điện thoại cho con trai là Nguyễn Xuân Tr nói Tr rủ bạn cùng ra bờ kè tìm đánh những người đang ngồi nhậu với chị X. Nghe lời bị cáo Nguyễn Viết X, Nguyễn Xuân Tr rủ Lê Dương N, Nguyễn Tấn H, Phan Thế B, Phan Thanh L, Tạ Đức D cùng đi đánh những người ngồi nhậu với chị X, thì tất cả đồng ý. Khi đến quán C, Nguyễn Tấn H, Phan Thế B, Tạ Đức D đứng bên ngoài giữ xe, Nguyễn Xuân Tr, Lê Dương N, Phan Thanh L mỗi người cầm một cây mã tấu chạy vào quán, Tr chém một cái trúng vào đỉnh đầu bên trái của anh V, sau đó Tr tiếp tục chém nhát thứ hai thì anh V đưa tay lên đỡ và kẹp được cây mã tấu, Tr rút mạnh mã tấu về phía sau gây thương tích ở tay anh V, L chạy đến trở cán mã tấu đánh vào lưng anh V nhưng không gây thương tích gì. N đuổi theo chém anh T 03 nhát nhưng anh T lấy ghế đỡ được nên không bị thương tích. Hậu quả gây thương tích cho anh Dương Thẩm V 20%.

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Viết X là người chủ mưu, xúi giục Nguyễn Xuân Tr cùng các bạn của Tr dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích 20% cho anh Dương Thẩm V. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Viết X về tội “ cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Viết X, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường cho người bị hại; gia đình bị cáo có công, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo với lý do: Vợ chồng bị cáo ly thân, bị cáo đang nuôi hai con nhỏ, trong đó một con bị bệnh không thể tự chăm sóc bản thân, hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, xét thấy đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đã được áp dụng cho bị cáo. Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 18 tháng tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Mặt khác, trong vụ án này, bị cáo là người chủ mưu, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội, căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn về áp dụng án treo thì bị cáo thuộc trường hợp không cho hưởng án treo. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Q.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Bị cáo Nguyễn Viết X phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết X. iữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 84/2019/HS-ST ngày 23-11-2019 của Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết X 18 (mười tám) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Viết X phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HS-PT ngày 19/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:26/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về