Bản án 26/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HỒNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 26/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Dương Văn N, sinh năm 1974 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn L, sinh năm 1930 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1932 (đã chết); Có vợ là Huỳnh Thị M, sinh năm 1979 và có 02 con (lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2003); Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại điều tra và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Hoàng Lệ H, sinh năm 1968 (đã chết). Cư trú: Ấp L, xã P, huyện K, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Phạm Văn D, sinh năm 1967;

2/ Phạm Văn P, sinh năm 1987;

3/ Phạm Văn S, sinh năm 1989;

4/ Phạm Ngọc O, sinh năm 1999;

Cùng cư trú: Ấp L, xã P, huyện K, tỉnh Đồng Tháp.

5/ Hoàng V, sinh năm 1930;

6/ Nguyễn Thị S, sinh năm 1944.

Cư trú: Ấp T, xã Q, huyện B, tỉnh Đồng Tháp.

Ngưi đại diện theo uỷ quyền của Phạm Văn P, Phạm Văn S, Phạm Ngọc O, Hoàng V, Nguyễn Thị S là Phạm Văn D, sinh năm 1967, cư trú: Ấp L, xã P, huyện K, tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

- Người làm chứng:

1/ Bùi Quốc D, sinh năm 1996 (vắng mặt);

2/ Bùi Văn D, sinh năm 1962 (vắng mặt);

3/ Bùi Thị B, sinh năm 1962 (vắng mặt);

Cùng cư trú: Ấp L, xã P, huyện K, tỉnh Đồng Tháp.

4/ Lương Văn T, sinh năm 1985 (có mặt);

Cư trú: Ấp A, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

5/ Đặng Văn T, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Cư trú: Khóm C, phường L, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

6/ Nguyễn Hữu N, sinh năm 1988 (vắng mặt).

Cư trú: Khóm B, phường T, thị xã H, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ ngày 02-6-2019, Dương Văn N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 66H8 - 5631 chạy từ nhà ở ấp A, xã H, huyện T đến xã T, huyện K để chở cá tra xuống ghe cho anh Nguyễn Hữu N, sau khi chở cá xuống ghe xong thì N chạy xe về ấp L, xã P, huyện Tân Hồng để chở cá từ ghe lên ao của anh N.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, sau khi chở cá xuống ao của anh N xong thì N quay đầu xe lại chạy từ trong đường nhánh (hẻm tự phát đi vào ao cá) ra đường nhựa nông thôn thì va chạm vào xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172 do bà Hoàng Lệ H điều khiển đang chạy trên tuyến đường nhựa nông thôn hướng từ huyện T về cầu TN thuộc ấp L, xã P, huyện Tân Hồng làm 02 người và 02 xe ngã xuống đường và bà H bị chấn thương. Sau đó bà H được chuyển đến Bệnh viện đa khoa khu vực thị xã H để điều trị nhưng đã tử vong trong ngày 02-6-2019.

Ti biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 02-6- 2019 thể hiện như sau:

- Mặt đường nhựa nơi xảy ra tai nạn rộng: 3,70 mét.

- Mặt đường nhánh rộng: 1,30 mét.

- Điểm nối giữa đường nhánh và đường nhựa nông thôn nằm bên lề phải theo hướng từ huyện T về cầu TN.

- Vị trí điểm va chạm giữa xe mô tô biển kiểm soát: 66H8 - 5631 và xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172 từ tâm điểm va chạm đo vào lề phải theo chiều đi từ huyện T về cầu TN thuộc ấp L, xã P, huyện Tân Hồng là 0,75 mét.

Ti Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 133/TTh-TTPY ngày 03-6- 2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Đồng Tháp kết luận nguyên nhân tử vong của bà Hoàng Lệ H do nứt vỡ sọ, xuất huyết não do tai nạn giao thông.

Vt chứng của vụ án thu giữ được:

- 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172, nhãn hiệu SYMEN, màu đỏ, số máy: FMH - VA40884, số khung: 7H - 010884, do Đặng Văn T đứng tên giấy đăng ký.

- 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 66H8 - 5631, nhãn hiệu SWEAR, màu xanh, số máy: 5X - 103326, số khung: 61103326, do Dương Văn N đứng tên giấy đăng ký.

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hồng đã trao trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172 cho ông Phạm Văn D quản lý; chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 66H8 - 5631 trả cho bị cáo Dương Văn N quản lý.

Ti Bản kết luận định giá tài sản số: 59/KL-HĐĐG ngày 30-7-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Hồng kết luận chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172 bị hư hỏng trị giá 400.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, bị cáo N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Hoàng Lệ H là ông Phạm Văn D (chồng bà H) số tiền 60.000.000 đồng (bao gồm: chi phí mai táng, tiền bồi thường tổn thất về tinh thần) và ông D có đơn không yêu cầu xử lý hình sự, bồi thường dân sự đối với bị cáo.

Ti Cáo trạng số 23/CT-VKSTH ngày 10 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp đã truy tố Dương Văn N về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Dương Văn N thừa nhận toàn bộ hành vi của bị cáo như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là có lỗi và vi phạm pháp luật.

Ti phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại Hoàng Lệ H là ông Phạm Văn D (chồng bà H) trình bày đã nhận số tiền do bị cáo bồi thường là 60.000.000 đồng (bao gồm: chi phí mai táng, tiền bồi thường tổn thất về tinh thần) và không yêu cầu xử lý hình sự và bồi thường dân sự đối với bị cáo.

Ti phần luận tội, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Dương Văn N về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 60.000.000 đồng, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn không yêu cầu xử lý hình sự và bồi thường dân sự đối với bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Từ những phân tích trên Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Dương Văn N mức án từ: 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 (Hai) năm đến 03 (Ba) năm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo N đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là ông Phạm Văn D (chồng bà H) số tiền 60.000.000 đồng (bao gồm: chi phí mai táng, tiền bồi thường tổn thất về tinh thần) xong. Riêng chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172 là của ông Đặng Văn T cho ông Phạm Văn D, chiếc xe bị hư hỏng trị giá 400.000 đồng, ông D không yêu cầu bị cáo N bồi thường nên không đề nghị xem xét, giải quyết.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không tham gia tranh luận.

Ti lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Hồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, Kiểm sát viên trong quá trình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Từ khi khởi tố vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo Dương Văn N phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định, lời khai của những người tham gia tố tụng khác và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, qua tranh tụng đã đủ cơ sở kết luận vào khoảng 15 giờ ngày 02-6-2019, Dương Văn N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 66H8 - 5631 tham gia giao thông đường bộ khi đi từ đường nhánh ra đường chính đã thiếu chú ý quan sát, không nhường đường cho xe chạy đến từ đường chính dẫn đến va chạm với xe mô tô biển kiểm soát: 66L9 - 5172 do bà Hoàng Lệ H điều khiển, hậu quả làm bà H ngã xuống đường dẫn đến tử vong. Trong trường hợp này, hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 3 Điều 24 Luật Giao thông đường bộ.

[3] Khi thực hiện hành vi vi phạm, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi, tuy hành vi của bị cáo xuất phát từ lỗi vô ý nhưng hậu quả do hành vi vi phạm mà bị cáo gây ra đã làm cho bà H tử vong. Từ những phân tích trên, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Điều luật trên quy định:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người”.

[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến an toàn công cộng, gây đau thương, mất mát cho gia đình bị hại, gây lo lắng cho nhiều người khi tham gia giao thông, vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội củ a mình, đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 60.000.000 đồng, đại diện hợp pháp của bị hại là ông Phạm Văn D có đơn không yêu cầu xử lý hình sự, bồi thường dân sự đối với bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: không có. Vậy nên Hội đồng xét xử nghĩ nên xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước ta.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải xử phạt cách ly bị cáo Dương Văn N ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cũng đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời cũng thể hiện được chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự nước ta.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 6 Điều 260 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và qua tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Phạm Văn D không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo Dương Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét thấy phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260, Điều 65; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Dương Văn N phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Dương Văn N 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (Hai) năm tính từ ngày án sơ thẩm tuyên (Ngày 31-10-2019).

Giao bị cáo Dương Văn N cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Đồng Tháp giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Dương Văn N thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù theo bản án cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Dương Văn N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 31-10-2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:26/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hồng - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về