Bản án 26/2019/HS-ST ngày 31/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 26/2019/HS-ST NGÀY 31/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2019/HSST ngày 07 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: Trần Đức H, sinh năm 1969 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu: Số nhà 4/53 ngõ A, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số nhà 2/17/47 ngõ A, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 3/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn G (đã chết) và bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1945; vợ: Nguyễn Thị Kim L – sinh năm 1974; có 01 con sinh năm 1997; tiền án: Ngày 19- 7-2016, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (ra trại ngày 04-02-2018); tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 23-11-2018 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23-11-2018, tổ công tác Công an phường Trần Quang Khải, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ 228 đường T, phường Q, thành phố n phát hiện Trần Đức H điều khiển xe máy có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra thu giữ trong lòng bàn tay phải của H 01 gói nhỏ nilon màu đen bên trong là giấy bạc màu trắng, mở kiểm tra bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (H khai là gói heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng sau đó đưa H và người làm chứng về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của H chiếc xe máy BKS: 18Z5-XXXX và 01 điện thoại di động Lenovo.

Bản kết luận giám định số 1009/GĐKTHS ngày 26-11-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Trần Đức H được niêm phong gửi giám định là chất ma tuý; loại ma tuý: Heroine; khối lượng mẫu: 0,128 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Đức H đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 11 giờ ngày 23-11-2018, H điều khiển xe máy BKS: 18Z5-xxxx đi từ nhà đến khu vực ngõ T, phường L, thành phố N mua của người đàn ông đang đứng trong ngõ (không rõ lai lý lịch) 01 gói heroine với giá 100.000 đồng. H cầm gói heroin trên tay phải điều khiển xe đi về đến khu vực đầu ngõ 228 đường T, phường Q, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Đối với đối tượng đã bán gói ma tuý cho H, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận, cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra để xác minh làm rõ, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 10/CT-VKSTPNĐ ngày 07-01-2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trần Đức H tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Đức H về tội danh, điều luật như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Đức H từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; trả lại cho bị cáo H 01 chiếc xe máy BKS: 18Z5-xxxx và 01 điện thoại di động Lenovo đã thu giữ nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 23-11-2018, Trần Đức H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,128 gam heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ tại khu vực đầu ngõ 228 đường T, phường Q, thành phố N.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Trần Đức H có 01 tiền án chưa được xóa án tích, lần này bị cáo phạm tội với lỗi cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự theo qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần ấn định cho bị cáo mức hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 1009/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật. 01 chiếc xe máy BKS: 18Z5-xxxx và 01 điện thoại di động Lenovo màu đen tài sản riêng của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hàn án phần án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đức H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Trần Đức H 24 (hai mươi tư) tháng tù.

- Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 23-11-2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1009/GĐKTHS.

- Trả lại cho bị cáo Trần Đức H 01 chiếc xe máy BKS: 18Z5-xxxx đã cũ và 01 điện thoại di động Lenovo màu đen đã cũ nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hàn án phần án phí hình sự sơ thẩm. (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Trần Đức H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HS-ST ngày 31/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về