Bản án 26/2019/HSST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Mạc Văn C, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1977; sinh trú quán: Thôn G, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Mạc Văn T và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Hồng Đ và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không;

Về nhân thân: Tại bản án hình sự phúc thẩm số: 1518/2003/HSPT ngày 31/10/2003 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội xử phạt Mạc Văn C 09 năm tù về tội “Giết người”. Đến nay bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/4/2019 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Mạc Khánh B, sinh năm 1988; trú tại: Thôn G, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 02/4/2019, Mạc Văn C là đối tượng nghiện ma túy một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 99H5 - XXX từ nhà đến khu vực Đ thuộc phường N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc mục đích là đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, C tìm và gặp một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch mua 07 gói ma túy nghi là (Heroine) với giá 700.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, C giấu số ma túy vừa mua được vào túi quần đang mặc phía trước bên trái rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô về nhà. C đi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn BM, xã T, huyện Y thì bị tổ tuần tra của Công an huyện Yên Lạc phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan. Thu tại túi quần đang mặc phía trước bên trái của C 01 túi nilon, bên trong chứa 07 gói nhỏ bằng giấy, trong cùng chứa chất bột dạng cục màu trắng, C khai nhận là ma túy Heroine vừa mua được ở thành phố V về để sử dụng, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có vỏ màu đen đã cũ và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave cũ có biển kiểm soát: 99H5 - XXX.

Tại kết luận giám định số: 553/KLGĐ ngày 05/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,9517 gam (Không phảy chín năm một bảy gam, không kể bao bì) là chất ma túy Heroine nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ”.

Về nguồn gốc ma túy: Quá trình điều tra, Mạc Văn C khai nhận, C là đối tượng bị nghiện ma túy từ năm 2016, qua bạn bè giới thiệu. C đã tìm gặp và mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở khu vực Đ thuộc địa phận phường N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc 07 gói ma túy (Heroine) với giá 700.000 đồng. Mục đích mua ma túy của C là mua về để sử dụng cho bản thân. Do C không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể của người đàn ông bán ma túy cho C nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để tiến hành điều tra xác minh và xử lý hình sự đối với người đàn ông đã bán ma túy cho C ở trên.

Quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 99H5 - XXX là tài sản hợp pháp của anh Mạc Khánh B cho C mượn. Khi mượn xe, C không nói cho B biết mục đích mượn xe để đi mua ma túy, C nói với B là mượn xe để đi giải quyết công việc riêng. Ngày 22/5/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh B chiếc xe mô tô trên. Sau khi nhận lại xe mô tô, anh B không có đề nghị gì.

Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả là vật Nhà nước cấm lưu hành, trả lại cho C chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. Quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc điện thoại di động trên là tài sản hợp pháp của C không liên quan gì đến vụ án nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Mạc Văn C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và lời khai của người làm chứng.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Mạc Văn C cũng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã khai tại Cơ quan điều tra.

Bản cáo trạng số: 30/CT-VKS ngày 31/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Mạc Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ được. Từ đó có đủ cở sở để xác định bị cáo Mạc Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Mạc Văn C và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mạc Văn C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo C.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Mạc Văn C không có ý kiến gì tham gia tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không có kiến nghị khắc phục gì.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Mạc Văn C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố mà không có lời tự bào chữa nào khác. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; phù hợp với các vật chứng đã thu được tại hiện trường và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 07giờ 30 phút ngày 02/4/2019, tại địa phận khu vực thôn BM, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, Mạc Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép 07 gói ma túy theo giám định là Heroine, khối lượng bằng 0,9517g (không phảy chín năm một bảy gam) thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan.

Tại kết luận giám định số: 553/KLGĐ ngày 05/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,9517 gam (Không phảy chín năm một bảy gam, không kể bao bì) là chất ma túy Heroine nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ”.

Với hành vi trên của Mạc Văn C đã có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy đinh tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự,

Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy…thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

….

c) Hêrôin,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý; xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, gây nên sự đau khổ bất hạnh cho nhiều gia đình; ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tội phạm về ma tuý là nguy cơ dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản…ngoài ra nó còn là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh thế kỷ: HIV - AIDS.

Khi đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2003, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 09 năm tù về tội Giết người, đến nay bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người công dân tốt lại còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy khi lượng hình cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình cho nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Đối với hành vi bán ma túy cho C của người đàn ông ở khu vực Đ, phường N, thành phố V thì thấy, quá trình điều tra, do C không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông trên nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để tiến hành điều tra xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 99H5 - XXX: Quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của anh Mạc Khánh B cho C mượn. Khi mượn xe, C không nói cho B biết mục đích mượn xe để đi mua ma túy. Ngày 22/5/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh B chiếc xe mô tô trên. Sau khi nhận lại tài sản, anh B không có ý kiến đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của Mạc Văn C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. Quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc điện thoại di động trên là tài sản hợp pháp của C không liên quan đến vụ án do vậy, cần trả lại cho C nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám địn là vật Nhà nước cấm lưu hành.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản cho nên bị cáo Mạc Văn C có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng, bản thân bị cáo C là đối tượng bị nghiện ma túy, lại không có công việc ổn định nên thu nhập không thường xuyên ổn định, điều kiện kinh tế của bị cáo quá khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Mạc Văn C phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Mạc Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Mạc Văn C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị báo bị bắt tạm giữ tạm giam 02/4/2019.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho Mạc Văn C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ nhưng cần tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án. Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Chi cục thi hành án huyện Yên Lạc và Công an huyện Yên Lạc ngày 13 tháng 6 năm 2019).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Mạc Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HSST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về