Bản án 26/2019/HSST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/5/2019, tại Nhà văn hóa khu N, Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2019/HSST ngày 08/5/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 09/5/2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1983 tại xã A, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn T, xã A, thành phố H, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn S và bà Vũ Thị C; có vợ là Nguyễn Thị Q; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/4/2019, đến ngày 05/4/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.

* Người làm chứng: Anh Đặng Văn C, sinh năm 1970; Địa chỉ: Đường N, khu Q, thị trấn N, huyện N, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04/4/2019, Phạm Văn T là người nghiện ma túy nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. T đi bộ từ nhà ở thôn T, xã A, thành phố H đến khu vực cổng chào khu L, thị trấn N, huyện N thấy 01 người đàn ông đứng cạnh xe máy không rõ biển số, T đến nói chuyện và biết người đó có ma túy bán. T đặt vấn đề mua 500.000đ ma túy đá thì người đàn ông này đồng ý. T đưa cho người này 500.000đ và nhận từ người này 01 gói ma túy. T cầm gói ma túy trên tay trái và đi bộ về nhà, trên đường về khoảng 21 giờ 15 phút thì bị lực lượng Công an huyện Nam Sách phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay trái của T gói ma túy trên.

Tại bản kết luận giám định số 133/KLGĐ (Đ6) ngày 05/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2505g, là loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-NS ngày 07/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Văn T thành khẩn khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 04/4/2019; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 133/2019/PC09 của phòng PC09 Công an thành phố Hải Phòng bên trong có 0,1555g Methamphetamine hoàn lại sau giám định. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 21 giờ 15 phút ngày 04/4/2019, tại khu La Xuyên, thị trấn Nam Sách, Phạm Văn T có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,2505 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an huyện Nam Sách phát hiện, bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo T nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản, do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra, công an có thu giữ của bị cáo T 0,2505g Methamphetamine. Sau khi giám định, cơ quan giám định hoàn lại 0,1555g Methamphetamine cùng vỏ bao bì mẫu vật đựng trong phong bì niêm phong số 133/2019/PC09 của phòng PC09 Công an thành phố Hải Phòng. Methamphetamine là chất cấm tàng trữ, lưu hành; vỏ bao bì niêm phong, bì thư hiện không có giá trị sử dụng do vậy cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được cụ thể họ tên, địa chỉ của người đàn ông này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 04/4/2019 và tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 133/2019/PC09 của phòng PC09 Công an thành phố Hải Phòng bên trong chứa 0,1555g Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HSST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về