Bản án 26/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 26/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại Hội trường Ủy ban nhân dân phường Phúc Thắng, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng T, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1986 tại huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã L, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: không; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1957 (đã chết) và con bà Trần Thị N, sinh năm 1959; có vợ là Trịnh Thị L, sinh năm 1989 (đã ly hôn); Con: Không có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/01/2019 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Tuấn A, sinh năm 1992 “vắng mặt”.

Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường P, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Người làm chứng: 

Anh Hoàng Trung K, sinh năm 1988 “vắng mặt”.

Anh Nguyễn Hải N, sinh năm 1979 “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 10/01/2019, Nguyễn Trọng T thuê xe taxi (không nhớ hãng xe và biển kiểm soát) đi từ nhà ở của mình đến khu vực phường T, thành phố P gặp và xin ma túy của bạn nghiện mới quen tên là Ngô Tuấn A để sử dụng. T khai nhận khi gặp A, cả hai vào ăn đêm ở ven đường gần đường quốc lộ 2 thuộc khu vực phường T, thành phố P. Tại đây, A đưa cho T 01 túi ma túy đá bảo mang về sử dụng, T cầm túi ma túy cất vào túi quần phía sau bên phải đang mặc. Đến khoảng 23 giờ 25 phút cùng ngày, A đi về trước, còn T đi bộ một mình đến khu vực trước cửa cây xăng số 118 thuộc phường T, thành phố P để tìm thuê xe taxi về nhà thì bị lực lượng Công an kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về việc thu giữ vật chứng gồm: Thu giữ tại túi quần sau bên phải của Nguyễn Trọng T 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các tinh thể dạng đá màu trắng (T khai nhận đây là túi ma túy tàng trữ để sử dụng cho bản thân) được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1.

Tại Bản kết luận giám định số 115/KLGĐ ngày 16/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định và kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,2785g (Không phảy hai bảy tám lăm gam, không kể bao bì), loại Methamphetamine (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, thứ tự 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/02/2018 của Chính Phủ.). Cơ quan giám định hoàn lại A1= 0,1259 gam cùng toàn bộ bao gói.

Tại Cáo trạng số 23/CT-VKSPY ngày 25 tháng 03 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố Nguyễn Trọng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng T khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo: Giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đối với bị cáo Nguyễn Trọng T; sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo T từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng từ đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 01 năm 2019, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì về các hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà Nguyễn Trọng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như: lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 11 tháng 01 năm 2019; phù hợp với vật chứng thu giữ được. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 23 giờ 25 phút ngày 10 tháng 01 năm 2019, tại khu vực cây xăng dầu số 118 thuộc phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an thành phố Phúc Yên phát hiện bắt quả tang Nguyễn Trọng T đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi ma túy đá có khối lượng 0,2785 gam, loại Methamphetamine. T khai tàng trữ với mục đích để sử dụng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Trọng T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số: 23/CT-VKSPY ngày 25 tháng 03 năm 2019 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Vì vậy cần xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam với mức án như Viện kiểm sát đề nghị mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung, cũng như giúp bị cáo cải tạo thành người công dân tốt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra xác minh ngày 18/02/2019 và tại phiên tòa làm rõ bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp, thu nhập. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng. Vì vậy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[5] Đối với Ngô Tuấn A là người T khai đã cho T ma túy để sử dụng. Quá trình điều tra vụ án Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh, triệu tập nhiều lần nhưng A không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[6] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu huỷ bao gói hoàn trả sau giám định: A1 = 0,1259 gam.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phúc Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Trọng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11 tháng 01 năm 2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định ký hiệu A1= 0,1259 gam (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phúc Yên). 

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Trọng T phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về