Bản án 26/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 195/2018/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09a/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ - Sinh năm 1995; Nơi đăng ký HKTT: bản N, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Chỗ ở: bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 10/12; Đảng viên, chức vụ Đảng: Không; Con ông: Nguyễn Văn Q; con bà: Nguyễn Thị H; Bị cáo có vợ là Phạm Thị H và có 01con sinh năm 2018, hiện ở bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Tiền án: Ngày 30/11/2016 bị TAND huyện Sông Mã xử phạt 08 tháng cải tạo không giam giữ về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giữ, giam từ ngày 29/7/2018 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn T - Sinh năm 1993; Nơi ở đăng ký HKTT và chỗ ở: bản C, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng viên, chức vụ Đảng: Không; Con ông: Nguyễn Văn Q; Con bà: Nguyễn Thị H; Bị cáo có vợ là Trương Thị T và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2018 hiện ở bản C, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La ; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giữ, giam từ ngày 29/7/2018 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Cầm Văn V - Sinh năm 1998.

Nơi ở đăng ký HKTT và chỗ ở: bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 10/12; Đảng viên, chức vụ Đảng: Không; Con ông: Cầm Văn X, con bà : Triệu Thị M; Bị cáo có vợ là Lò Thị H, chưa có con, hiện ở bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 23/11/2017 bị Công an huyện Sông Mã xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác.

Bị cáo bị bắt giữ, giam từ ngày 29/7/2018 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Nguyễn Đăng H - Sinh năm 1991.

Nơi ở đăng ký HKTT và chỗ ở: bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 10/12; Đảng viên, chức vụ Đảng: Không; Con ông: Nguyễn Đăng L, con bà: Trần Thị H; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giữ, giam từ ngày 29/7/2018 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Ngưi bị hại: Anh Tòng Tuấn C, sinh năm 1993

Địa chỉ: Tổ 8, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

* Ngưi có quyền lợi liên quan:

1. Anh Nguyễn Huy G, sinh năm 1980

Địa chỉ: Bản L, phường C, thành phố S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

2. Đỗ Văn H, sinh năm 1987.

Đa chỉ: Thôn T, xã T, huyện P, tỉnh Hưng Yên. Vắng mặt.

3. Hoàng Văn T, sinh năm 1985.

Đa chỉ: Bản C, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

4. Anh Hoàng Tiến Đ, sinh năm 1993.

Đa chỉ: Bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

5. Phạm Thị H, sinh năm 1999.

Đa chỉ: bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 00’ ngày 26/7/2018 Nguyễn Văn Đ trú tại bản H, xã C, huyện S, Sơn La điều khiển xe mô tô trên đường đi chơi ở bản Liên Hồng, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã về thì gặp xe ô tô chở khách mang BKS 26B - 00563 chạy tuyến Sốp Cộp - Hưng Yên do Nguyễn Huy G trú tại bản L, phường C, thành phố Sơn La làm chủ, Hoàng Văn T trú tại bản C, xã C, huyện M, Sơn La; Đỗ Văn H trú tại thôn T, xã T, huyện P, Hưng Yên làm lái xe và Tòng Tuấn C trú tại tổ 8, phường C, thành phố Sơn La làm phụ xe, đang đỗ ở lề đường quốc lộ 4G để đón khách. Khi Đ đi đến gần thì đúng lúc xe khách di chuyển làm cản trở hướng đi của Đ nên Đ liền nói “Chúng mày đi xe kiểu gì đấy, không biết lái xe à”, nghe vậy T, H và C xuống xe và xảy ra mâu thuẫn với Đ; C dùng tay trái túm vào vai áo bên trái của Đ rồi dùng tay phải đấm vào mặt của Đ nhưng Đ tránh được, C tiếp tục dùng tay trái đấm một phát trúng vào bụng Đ, sau đó C dùng chân trái lên gối vào bụng Đ nhưng Đ dơ tay ra đỡ được và bỏ chạy, thấy Đ bỏ chạy C, H và T lên xe ô tô đi, lúc này Đ liền nhặt một viên gạch ở lề đường ném một phát trúng vào phía sau vỏ xe khách rồi đi về nhà. Sau khi bị đánh, Đạt đã nảy sinh ý định chặn đánh lại những người trên nên buổi tối cùng ngày Đ gọi điện thoại cho anh trai là Nguyễn Văn T ở bản C, xã C, huyện S kể lại sự việc bị đánh và rủ T chặn đánh những người đã đánh Đ và được T đồng ý. Đến sáng ngày 27/7/2018 Đ nhắn tin cho Nguyễn Đăng H ở bản H, xã C, huyện S và rủ H tham gia cùng chặn đánh những người đã đánh Đ và được H đồng ý. Khoảng 12 giờ ngày 28/7/2018 khi biết xe ô tô khách sẽ đi từ Sốp Cộp đi Hưng Yên nên Đ lấy số điện thoại xe khách và bảo vợ là Phạm Thị H gọi điện thoại đặt xe cho bạn đi Hưng Yên để tạo niềm tin, đến khoảng 17 giờ cùng ngày Đ gọi điện thoại rủ T và H đến nhà thì có Cầm Văn V ở bản H, xã C, huyện S đến nhà Đ chơi nên Đ rủ V cùng tham gia đánh nhau và V đồng ý. Sau đó Đ, T, H và V cùng ngồi ở bàn uống nước trong nhà Đ để bàn bạc việc đánh nhau, cùng thống nhất H là người gọi điện thoại cho lái xe, ra vẫy xe và dẫn người lấy hàng vào trong nhà, T và V thì nấp ở phía sau nhà, còn Đ sẽ núp ở ngoài cửa chính, khi nào H dẫn người vào trong nhà thì tất cả cùng đánh, sau đó Đ để 03 đoạn tuýp làm bằng kim loại có sẵn từ trước ở chân tường phía sau nhà cho T và V sử dụng, còn Đ cầm 01 đoạn tuýp bằng kim loại đi ra ngoài.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày khi xe khách đi đến bản Hưng Hà, H ra vẫy xe và C xuống xe để lấy hàng rồi H dẫn C vào trong nhà, lúc này Đ đứng ở nhà bên cạnh để tránh bị phát hiện, T cầm một đoạn tuýp, V không dùng tuýp do Đ chuẩn bị mà cầm hai vỏ chai bia Hà Nội (mỗi tay một chai) có sẵn trong nhà từ trước nấp ở sau nhà, khi H dẫn C đi gần đến vị trí nấp của V và T thì H ra hiệu cho V và T lao ra, V cầm vỏ chai bia bằng tay phải đập liên tiếp hai nhát về phía C, nhưng C đỡ được nên chỉ trúng vào tay và trán, sau đó V tiếp tục cầm vỏ chai bia bằng tay trái đập một phát vào đầu C làm chai bia bị vỡ trượt xuống mặt làm rách mặt C và chảy máu. Do bị đánh nên C dùng hai tay ôm đầu và nằm xuống nền nhà, V tiếp tục dùng vỏ chai bia cầm bằng tay phải đập hai phát vào tay C đang ôm đầu và dùng chân phải đạp hai phát vào hông và chân trái của C, lúc này T dùng tuýp đập 01 nhát vào sườn trái và dùng chân phải đá vào mông và hông bên trái của C, còn H dùng chân phải đá hai phát vào lưng C, lúc này Đ kéo cửa lại rồi chạy vào cầm tuýp sắt bằng tay trái vụt một nhát trúng vào bả vai trái của C, rồi dùng chân trái đá vào hông và đá vào chân trái của C, thấy C bị đánh chảy máu và nghe thấy tiếng người ở ngoài nên T, H và V chạy ra phía sau nhà Đ qua cửa phụ ra ngoài, còn Đ mở cửa trước chạy ra, C chạy theo sau. Biết C bị đánh nên T và H xuống xe mỗi người cầm một đoạn tuýp bằng kim loại cùng C đuổi đánh Đ, Đ chạy vào sân nhà của Hoàng Tiến Đ ở bản Hưng Hà thì H, T và C đuổi đến cổng, lúc này Hoàng Tiến Đ ra can ngăn không cho vào trong nên H, T và C nhặt gạch ở gần đó ném Nguyễn Văn Đ, quá trình các đối tượng ném Hoàng Tiến Đ bị một viên gạch ném trúng vào cánh tay trái bị xước da chảy máu, lúc này người dân xung quanh cũng ra để can ngăn, còn Nguyễn Văn Đ đã bỏ chạy ra phía sau nhà Hoàng Tiến Đ, thấy các đối tượng đã bỏ chạy hết nên T và H đưa C đến đến Trạm y tế xã Chiềng Khương để chữa trị nhưng do vết thương nặng nên đưa C đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La để điều trị.

Ngày 28/07/2018 anh Tòng Tuấn C có đơn đề nghị xử lý đối với Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cầm Văn V và Nguyễn Đăng H theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của anh Tòng Tuấn C do Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã thực hiện hồi 09 giờ 30’ ngày 30/7/2018 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La: Tại má trái có một vết thương đã được khâu liền miệng bằng 22 đường chỉ khâu dài 11cm; tại thái dương đỉnh có một khối sưng nề bầm tím kích thước 9 x 4cm; tại chán bên trái có vết thương rách da kích thước 1,5 x 0,5cm; tại bả vai trái có vết bầm tím kích thước 13 x 10cm, bên trên có vết rách da kích thước 2 x 0,1cm; tại mạn sườn trái có vết thương bóc tróc da kích thước 4 x2,5cm; tại mu bàn tay trái và ngón 5 bàn tay trái sưng nề, bầm tím; tại khủy tay phải có vết xây xước da kích thước 2 x 1,5cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 146/Tgt ngày 06/8/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế Sơn La kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Tòng Tuấn C tại thời điểm giám định là 13% (mười ba phần trăm)”.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 305 ngày 01/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS thuộc UBND huyện Sông Mã kết luận: 02 vết lõm, xước sơn, mài mòn kim loại trên vỏ phía sau xe ô tô chở khách BKS 26B- 005.63 do Nguyễn Văn Đ dùng gạch ném tổng trị giá là 1.200.000VNĐ.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 153/CT-VKSSM ngày 14tháng 11 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cầm Văn V và Nguyễn Đăng H về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Văn Đ từ 28 - 32 tháng tù. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Cầm Văn V từ 28 - 32 tháng tù. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Văn T từ 24 - 28 tháng tù, xử phạt Nguyễn Đăng H từ 24 - 28 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy số vật chứng liên quan; Trả lại chị Phạm Thị H điện thoại và thẻ sim. Buộc các bị cáo liên đới bồi thường số tiền còn thiếu cho người bị hại. Buộc những người có liên quan Tòng Tuấn C, Đỗ Văn H, Hoàng Văn T bồi thường thiệt hại cho anh Hoàng Tiến Đ. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Huy G. Buộc các bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản khám nghiệm hiện trường lập vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 29/7/2018, khám nghiệm hiện trường vụ cố ý gây thương tích xảy ra tại nhà của Nguyễn Văn Đ tại bản H, xã C, huyện S, Sơn La;

- Biên bản khám nghiệm hiện trường lập vào hồi 11 giờ 50 phút ngày 29/7/2018 tại nhà của Hoàng Tiến Đ, khám nghiệm hiện trường liên quan đến vụ cố ý gây thương tích xảy ra tại nhà của Nguyễn Văn Đ tại bản H, xã C, huyện S, Sơn La;

- Vật chứng bị thu giữ gồm 05 vỏ chai bia và các mảnh vỡ của vỏ chai bia Hà Nội, 03 viên gạch màu đỏ đã bị vỡ, 04 đoạn gậy bằng kim loại rỗng.

- Lời khai của các bị cáo về việc ngày 26/7/2018 giữa Nguyễn Văn Đ và lái xe cùng phụ xe khách chạy tuyến Sốp Cộp - Hưng Yên gồm Hoàng Văn T, Đỗ Văn H,Tòng Tuấn C có xảy ra mâu thuẫn, sau đó Đ bị Tòng Tuấn C đánh. Sau khi bị đánh, Đ đã nảy sinh ý định chặn đánh lại những người đã đánh mình nên đã rủ Nguyễn Văn T, Nguyễn Đăng H và Cầm Văn V cùng tham gia. Đến khoảng 18 giờ 30 ngày 28/7/2018 các bị cáo đã cùng nhau thực hiện việc gây thương tích cho anh Tòng Tuấn C.

- Lời khai của người bị hại Tòng Tuấn C về sự việc xảy ra mâu thuẫn tại khu vực bản L, xã C, huyện S vào ngày 26/7/2018 và sự việc vào ngày 28/7/2018 tại bản H, xã C, huyện Sỉnh Sơn La anh bị nhóm thanh niên gồm bốn người đánh gây nên thương tích.

- Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của anh Tòng Tuấn C do Cơ quan CSĐT Công an huyện S thực hiện hồi 09 giờ 30’ ngày 30/7/2018 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La.

- Kết luận giám định pháp y về thương tích số 146/Tgt ngày 06/8/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế Sơn La kết luận tỷ lệ thương tích của Tòng Tuấn C đã kết luận: “ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Tòng Tuấn C tại thời điểm giám định là 13% (mười ba phần trăm)”.

- Lời khai của các anh Nguyễn Huy G, Hoàng Văn T, Đỗ Văn H là chủ xe và lái xe khách mà Tòng Tuấn C làm phụ xe, có chứng kiến sự việc.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm.

Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cầm Văn V và Nguyễn Đăng H về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẫn từ trước nên ngày 28/7/2018 tại bản H, xã C, huyện S Nguyễn Văn Đ đã cùng Nguyễn Văn T, Cầm Văn V và Nguyễn Đăng H bàn bạc, dùng hung khí là vỏ chai bia và gậy bằng kim loại gây thương tích đối với Tòng Tuấn C. Hậu quả làm anh C bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tích được xác định 13%.

Hành vi dùng hung khí nguy hiểm của Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cầm Văn V và Nguyễn Đăng H gây nên thương tích cho anh Tòng Tuấn C đã phạm vào tội Cố ý gây thương tích - Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nên phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ có một tiền án, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn Đăng H, Cầm Văn V không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi sự việc xảy ra các bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường cho người bị hại ( gia đình bị cáo Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Văn T trực tiếp bồi thường, nhưng qua tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị H là mẹ của bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T ý kiến, sự việc xảy ra do con trai chị rủ rê các bị cáo khác thực hiện nên chị bồi thường phần trách nhiệm cho cả 04 bị cáo, nên xác định các bị cáo đều được hưởng tình tiết này ); tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra đối với các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Đăng H phạm tội lần đầu và có vai trò ít nghiêm trọng trong vụ án - là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Về vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này Nguyễn Văn Đ là người rủ rê, khởi sướng; các bị cáo khác là đồng phạm với vai trò là người thực hành; bị cáo Cầm Văn V là người trực tiếp gây nên thương tích cho người bị hại. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, vai trò của các bị cáo để quyết định một mức án phù hợp với từng bị cáo.

Cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

[6] Về thiệt hại và trách nhiệm bồi thường: Tài liệu trong hồ sơ và lời khai tại phiên tòa thể hiện anh Tòng Tuấn C yêu cầu các bị cáo bồi thường với tổng số tiền là 72.600.000đ, gia đình các bị cáo đã bồi thường số tiền 50.000.000đ, số còn thiếu là 22.600.000đ; tại phiên tòa người bị hại đề nghị buộc các bị cáo liên đới bồi thường số tiền còn thiếu. Xét thấy thỏa thuận của giữa người bị hại và các bị cáo về vấn đề bồi thường là hoàn toàn tự nguyện nên cần ghi nhận. Đối với số tiền còn thiếu cần buộc các bị cáo liên đới bồi thường.

Lời trình bày tại phiên tòa anh Nguyễn Huy G là chủ xe khách đề nghị buộc Nguyễn Văn Đ bồi thường số tiền ném đá vào xe là 1.200.000đ. Xét thấy yêu cầu của anh phù hợp với kết luận định giá về thiệt hại của xe ô tô chở khách BKS 26B- 005.63 ( kết luận số 305 ngày 01/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS thuộc UBND huyện Sông Mã ), do vậy cần buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường thiệt hại cho chủ xe theo kết luận định giá.

Lời trình bày tại phiên tòa anh Hoàng Tiến Đ yêu cầu Đỗ Văn H, Hoàng Văn T, Tòng Tuấn C bồi thường số tiền do bị ném gạch vào nhà là 2.000.000đ, xét thấy tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Tòng Tuấn C nhất trí bồi thường, nên cần buộc Đỗ Văn H, Hoàng Văn T, Tòng Tuấn C liên đới bồi thường cho anh Hoàng Tiến Đ.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với 05 vỏ chai bia và các mảnh vỡ của vỏ chai bia Hà Nội, 05 viên gạch, 04 đoạn gậy bằng kim loại rỗng là công cụ thực hiện tội phạm cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia cùng 02 sim lắp trên máy và 01 chiếc sim Viettel thuộc sở hữu của chị Phạm Thị H, nên cần trả lại chị Huyền quản lý, sử dụng.

[8] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với Tòng Tuấn C đã có hành vi đánh Nguyễn Văn Đ vào ngày 26/7/2018, nhưng chưa gây thương tích cho Đạt nên Cơ quan CSĐT ra quyết định xử phạt hành chính là có căn cứ.

Đi với hành vi của Đỗ Văn H, Hoàng Văn T, Tòng Tuấn C đã dùng gạch ném vào nhà và trúng vào tay của Hoàng Tiến Đ khi đuổi đánh Nguyễn Văn Đ, do bị thương tích nhẹ nên Hoàng Tiến Đ không đề nghị gì; Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Đỗ Văn H, Hoàng Văn T, Tòng Tuấn C là có căn cứ.

Đi với Phạm Thị H được Nguyễn Văn Đ nhờ gọi điện thoại đặt xe cho bạn đi Hưng Yên để tạo niềm tin vào ngày 28/7/2018, do H không biết mục đích của Đ nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã không xử lý là có căn cứ.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố:

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cầm Văn V và Nguyễn Đăng H phạm tội Cố ý gây thương tích.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Văn Đ 28 ( hai mươi tám ) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày tạm giữ, giam là ngày 29/7/2018.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Cầm Văn V 28 ( hai mươi tám ) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày tạm giữ, giam là ngày 29/7/2018.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, i khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Văn T 24 ( hai mươi tư ) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày tạm giữ, giam là ngày 29/7/2018.

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, i khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Đăng H 24 ( hai mươi tư ) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày tạm giữ, giam là ngày 29/7/2018.

2- Về trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận việc tự nguyện thỏa thuận giữa các bị cáo và người bị hại về việc các bị cáo bồi thường cho người bị hại số tiền 72.600.000đ ( bảy mươi hai triệu sáu trăm ngàn đồng ).

Ghi nhận việc gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại Tòng Tuấn C số tiền 50.000.000đ ( năm mươi triệu đồng ).

- Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Cầm Văn V, Nguyễn Đăng H liên đới bồi thường cho người bị hại Tòng Tuấn C số tiền còn thiếu là 22.600.000đ ( hai mươi hai triệu sáu trăm ngàn đồng). Cụ thể mỗi bị cáo bồi thường như sau:

+ Bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường 5.650.000đ ( năm triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng ).

+ Bị cáo Nguyễn Văn T bồi thường 5.650.000đ ( năm triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng ).

+ Bị cáo Cầm Văn V bồi thường 5.650.000đ ( năm triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng ).

+ Bị cáo Nguyễn Đăng H bồi thường 5.650.000đ ( năm triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng ).

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường cho anh Nguyễn Huy G số tiền 1.200.000đ ( một triệu hai trăm ngàn đồng ).

- Buộc những người có nghĩa vụ liên quan Đỗ Văn H, Hoàng Văn T,Tòng Tuấn C bồi thường cho anh Hoàng Tiến Đ; số tiền 2.000.000đ. Cụ thể mỗi người bồi thường như sau:

+ Anh Đỗ Văn H bồi thường 665.000đ ( sáu trăm sáu mươi lăm ngàn đồng ).

+ Anh Hoàng Văn T bồi thường 665.000đ ( sáu trăm sáu mươi lăm ngàn đồng ).

+ Anh Tòng Tuấn C bồi thường 670.000đ ( sáu trăm bảy mươi ngàn đồng ).

3- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 05 (năm) vỏ chai bia Hà Nội bằng thủy tinh màu nâu loại 450ml.

- 01 (một) cổ vỏ chai thủy tinh, loại chai bia Hà Nội, phần nối thân chai bị vỡ nham nhở, kích thước dại nhất 13cm.

- 09 (chín) mảnh thủy tinh màu nâu không rõ hình được xác định là mảnh vỡ của chai bia Hà Nội, có kích thước là:

+ Mảnh 1: 5 x 2,2 x 0,6cm

+ Mảnh 2: 3,5 x 2,4 x 0,4cm

+ Mảnh 3: 4 x 2,4 x 0,8cm

+ Mảnh 4: 2,6 x 1,9 x 0,4cm

+ Mảnh 5: 1,5 x 0,9 x 0,4cm

+ Mảnh 6: 1,6 x 1,1 x 0,4cm

+ Mảnh 7: 1,7 x 1,2 x 0,4cm

+ Mảnh 8: 1,5 x 0,4cm

+ Mảnh 9: 1,1 x 0,9 x 0,4cm - 02 ( hai ) viên gạch đỏ hình chữ nhật có kích thước 33 x 19,3 x 6cm - 03 ( ba ) viên gạch đỏ đã bị vỡ có kích thước lần lượt là:

+ Viên 1: 8,7 x 7 x 5,8cm

+ Viên 2: 6 x 3 x 2,8cm

+ Viên 3 : 4,7 x 3 x 2,9cm - 04 ( bốn ) đoạn gậy bằng kim loại rỗng, đường kính 2,3cm, đoạn thứ nhất dài 80cm, đoạn thứ hai dài 82cm, đoạn thứ ba dài 100cm.

- Trả lại cho người có quyền lợi liên quan Phạm Thị Huyền:

+ 01(một) chiếc điện thoại hiệu NOKIA RM 1187, số Imei 1: 354884081591165, số Imei 2 : 354884081591173, điện thoại có 02 sim, số thuê bao sim 1 : 0945925061, số thuê bao sim 2 : 0974778913.

+ 01 (một) sim điện thoại số 0961301737.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/10/2018 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã).

4- Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

- Buộc mỗi bị cáo chịu 200.000đ ( hai trăm ngàn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ chịu 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng ) án phí dân sự đối với phần phải bồi thường cho Nguyễn Huy G.

- Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đăng Ho, Cầm Văn V mỗi bị cáo phải chịu 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng ) án phí dân sự đối với phần phải bồi thường cho Tòng Tuấn C.

- Buộc những người có nghĩa vụ liên quan Đỗ Văn H, Hoàng Văn T, Tòng Tuấn C, mỗi người phải chịu 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng ) án phí dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo; người bị hại Tòng Tuấn C; những người có quyền lợi liên quan Nguyễn Huy G, Hoàng Tiến Đ, Phạm Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 16/4/2019. Những người có nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn T, Đỗ Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:26/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về