Bản án 26/2019/HSST ngày 04/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 26/2019/HSST NGÀY 04/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2019/HSST ngày 11 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2019/QĐXXST- HS ngày 20/6/2019 đối với bị cáo:

Sộng A L, tên gọi khác: Sồng A D, sinh năm 1999, tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản Nong P, xã Mường L, huyện Sốp C, tỉnh Sơn L; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; chức vụ, Đảng phái: Không; con ông: Sồng A K và bà: Thào Thị C; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân; bị bắt tạm giam từ ngày 13/3/2019 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11 đến ngày 13 tháng 3 năm 2019 Sộng A L nhận làm thuê cho một người dân tộc Mông không quen biết, được ông ta trả công là 01 cục nhựa thuốc phiện, mục đích về sử dụng cho bản thân, trên đường về đến bản Nong Phụ, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp thì bị Công an huyện Sốp Cộp và Đồn Biên phòng Mường Lạn, xã Mường Lạn kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Sộng A L 01 cục nhựa màu nâu nghi là thuốc phiện được gói trong vỏ bao thuốc Lào hiệu Tiên Lãng màu đỏ và 01 Ba lô bộ đội màu xanh rằn ri. Vật chứng được niêm phong theo quy định.

Ngày 14/3/2019 tại phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, trích mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ của bị cáo, cân tịnh cục nhựa màu nâu đen nghi là thuốc phiện có khối lượng 37 gam. Trích ra 07 gam để giám định ký hiệu L; còn lại 30 gam là vật chứng lưu kho, ký hiệu L1.

Bản kết luận giám định số 600 ngày 17/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu L là ma túy, loại Thuốc phiện; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 07 gam".Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 37gam; loại thuốc phiện.

Bản cáo trạng số 28 /CT-VKSSC ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Sộng A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Sộng A L (Sồng A Dê) từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về vật chứng: Vật chứng còn lại là 30 gam nhựa thuốc phiện là vật cấm lưu hành và các vật chứng khác không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Sộng A Ly phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Về nguồn gốc chất ma túy, bị cáo khai do được trả công khi làm thuê cho một người dân tộc Mông, không biết tên và địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ khác chứng minh, nên cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng, tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận của bị cáo, vật chứng của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định tội danh:

Tại phiên tòa bị cáo L khai nhận ngày 13 tháng 3 năm 2019 khi đang cất giấu 37 gam nhựa thuốc phiện thì bị Công an huyện Sốp Cộp bắt quả tang; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 15 giờ 40 phút ngày 13 tháng 3 năm 2019; Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 600, ngày 17/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 37 gam nhựa thuốc phiện.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Sộng A L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhằm răn đe giáo dục và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, xác định được gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tốbị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy bị cáo không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng phạt tiền.

[6]Về vật chứng: 01 Ba lô bộ đội màu xanh rằn ri đã cũ và 01 chiếc phong bì màu trắng của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Sộng A L, bên trong phong bì có: 01 phong bì thư niêm phong ban đầu cùng 01 vỏ bao thuốc lào màu đỏ và 01 cục nhựa thuốc phiện màu nâu đen có khối lượng 30 gam; là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

1.Tuyên bố bị cáo Sộng A L, tên gọi khác (Sồng A D) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy :

Xử phạt Sộng A L 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2019.

Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

2. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy các vật chứng sau:

-01(một) chiếc phong bì màu trắng của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã niêm phong dán kín. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng lưu kho vụ Sộng A L, bên trong phong bì có: 01 phong bì thư niêm phong ban đầu cùng 01 vỏ bao thuốc lào nhãn hiệu tiên Lãng màu đỏ và 01 cục nhựa thuốc phiện màu nâu đen có khối lượng 30 gam.

-01(một) Ba lô bộ đội màu xanh rằn ri đã cũ; Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11 tháng 6 năm 2019, giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí ; buộc bị cáo Sộng A L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/7/2019), để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HSST ngày 04/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về