Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Trần Lan A và anh Nguyễn Văn T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ TRẦN LAN A VÀ ANH NGUYỄN VĂN T

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 63/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 19/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Lan A sinh năm 1997

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T sinh năm 1991

Cùng địa chỉ: Thôn v, xã AV, huyện P, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có chị Trần Lan A, vắng mặt anh Nguyễn Văn T)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 20/02/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Lan A trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kế hôn tại UBND xã AV, huyện P ngày 05/10/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến tháng 6/2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T chơi bời, cờ bạc, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình, vợ, con. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 01/2018, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cùng thôn sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho tới nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, chị xin ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thị B sinh ngày 21/10/2017, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Hiện tại chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Kết quả xác minh với gia đình anh T (ông Nguyễn Văn K – bố đẻ anh T) và cơ sở Thôn v, xã AV thấy: Chị Trần Lan A và anh Nguyễn Văn T là vợ chồng, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì gia đình và cơ sở thôn không biết, chỉ biết từ tháng 01/2018 chị Lan A đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cùng thôn sinh sống. Nay chị Lan A có đơn xin ly hôn anh T gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị Lan A và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị B sinh ngày 21/10/2017, hiện đang ở với chị Lan Anh, nếu Tòa án giải quyết cho chị Lan A và anh T ly hôn, về con chung và cấp dưỡng cho con gia đình và cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung gia đình và cơ sở thôn không rõ.

Anh Nguyễn Văn T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn V, xã AV, huyện P. Hiện tại, anh T đi làm ăn tự do, địa chỉ cụ thể gia đình và cơ sở thôn không biết nhưng anh T thường xuyên liên lạc về với gia đình, khi gia đình có công việc thì anh T về gia đình.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

 Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến nhận xét.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Trần Lan A được ly hôn anh Nguyễn Văn T; giao con chung Nguyễn Thị B sinh ngày 21/10/2017 cho chị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng, chị Lan A không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Anh T có quyền, nghĩa vụ đi lại trông nom và giáo dục con chung; về tài sản chung không đặt ra giải quyết; chị Lan A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Trần Lan Akhởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Nguyễn Văn T. Do anh T là bị đơn cư trú tại Thôn V, xã AV, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Quỳnh Phụ, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 và Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Lan Avà anh Nguyễn Văn T xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã AV, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp giấy đăng ký kết hôn số 27 ngày 05/10/2015 là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống hạnh phúc hòa thuận đến năm 6/2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T chơi bời, cờ bạc, không tu chí làm ăn, từ đó không quan tâm đến gia đình, vợ, con. Mâu thuẫn căng thẳng vào năm tháng 01/2018, vợ chồng ly thân từ đó cho tới nay, không ai hỏi han quan tâm gì tới ai. Nay chị Lan A có đơn xin ly hôn anh T, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng anh T không có mặt tại phiên hòa giải và vắng mặt tại các buổi tố tụng của Tòa án mặc dù anh T đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án. Điều đó chứng tỏ anh T không có thiện chí hòa giải, không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Như vậy, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ tồn tại về mặt hình thức, anh, chị thực sự không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị Lan Anh, xử cho chị Lan A được ly hôn anh T là phù hợp với Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Trần Lan A và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung là Nguyễn Thị B sinh ngày 21/10/2017, hiện đang ở với chị Lan A cầu anh T cấp dưỡng cho con. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của chị Lan A là chính đáng, con chung đang ở với chị Lan Anh, con chung chưa đủ 36 tháng tuổi, để không ảnh hưởng đến việc sinh hoạt của con chung nên cần giao con chung cho chị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng, chị Lan A không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con, anh T có quyền, nghĩa vụ trông nom, giáo dục con chung là phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.3.] Về tài sản chung: Chị Trần Lan A không yêu cầu Tòa án giải quyết còn anh Nguyễn Văn T không có ý kiến trình bày về tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.

[2.4] Về án phí: Chị Trần Lan A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Chị Trần Lan A và anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Lan A được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2.Về quan hệ con chung: Xử giao con chung Nguyễn Thị B sinh ngày 21/10/2017 cho chị Trần Lan A trực tiếp nuôi dưỡng, chị Lan A không yêu cầu anh Nguyễn Văn T cấp dưỡng cho con, anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Lan A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Lan A đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003921 ngày 15 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Lan A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Trần Lan A và anh Nguyễn Văn T

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về