Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 06/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VB, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Vân A; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn CC2, xã TT, huyện VB, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Thôn PT 1, xã HT, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá T; nơi cư trú: Thôn CC2, xã TT, huyện VB, thànhphố Hải Phòng; vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Vân A trình bày: Chị và anh Nguyễn Bá T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 12-01-2015. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, anh T luôn chơi bời, nợ lần đánh đập chị. Mặt khác gia đình chồng thường gây áp lực cho chị dẫn đến mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Do mâu thuẫn vợ chồng nên từ đầu năm 2018 đến nay chị đã đưa con về gia đình chị sinh sống, vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị Phạm Thị Vân A xác định tình nghĩa vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Bá T.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Bá T có 01 con chung là Nguyễn Như Q sinh ngày 15-4-2016, hiện đang ở với chị. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự giải quyết với anh T .

Về tài sản: Chị xin tự giải quyết với anh T về tài sản, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai và các văn bản tố tụng khác, bị đơn anh Nguyễn Bá T xác nhận điều kiện hoàn cảnh kết hôn như chị Phạm Thị Vân A trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận đến đầu năm 2018 thì xảy ra xô sát cãi chửi nhau giữa mẹ anh và chị Vân Anh dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, sau đó chị Vân Anh đã tự ý đưa con về gia đình chị sinh sống. Anh đã tìm chị trở về gia đình về nhiều lần nhưng chị không muốn đoàn tụ. Từ tháng 7 năm 2018 đến nay, anh chị sống ly thân mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị Phạm Thị Vân A xin ly hôn, anh không đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Phạm Thị Vân A có 01 con chung là Nguyễn Như Q sinh ngày 15-4-2016. Khi ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con anh xin tự giải quyết với chị Vân Anh.

Về tài sản: Anh xin tự giải quyết với chị Phạm Thị Vân A, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đồng thời phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ, việc xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn, đã chấp hành yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án như việc giao nộp chứng cứ, tham gia phiên họp, phiên hòa giải theo quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành yêu cầu của Tòa án như không nộp bản tự khai, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa. Tuy nhiên việc bị đơn vi phạm quyền và nghĩa vụ tố tụng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án

Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Phạm Thị Vân A được ly hôn với anh Nguyễn Bá T. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Như Q sinh ngày 15-4-2016 cho chị Phạm Thị Vân A trực tiếp nuôi dưỡng,việc cấp dưỡng nuôi con anh chị tự giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về tài sản: Chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T xin tự giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Phạm Thị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Bá T có hộ khẩu thường trú tại Thôn CC2, xã TT, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn giữa chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng.

[2] Bị đơn anh Nguyễn Bá T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, tuy nhiên anh T vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Chị Phạm Thị Vân A có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TT, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 12-01-2015 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận thời gian đầu và có một con chung, mâu thuẫn phát sinh từ năm 2018 do vợ chồng không hợp tính nhau, luôn bất dồng quan điểm dẫn đến xô sát, bất hòa. Từ đầu năm 2018 đến nay chị Phạm Thị Vân A đã đưa con chung về gia đình chị sinh sống, vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị Phạm Thị Vân A nhận thấy tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Bá T. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không đồng ý ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu của chị Phạm Thị Vân A xin ly hôn với anh Nguyễn Bá T phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T có 01 con chung là Nguyễn Như Q sinh ngày 15-4-2016 hiện đang ở với chị Vân Anh. Khi ly hôn, anh chị cùng đề nghị được nuôi con chung. Xét yêu cầu nuôi con chung của anh chị, Hội đồng xét xử nhận định: Chị Vân Anh và anh T đều có thu nhập ổn định hàng tháng, tuy nhiên do con chung Nguyễn Như Q sinh ngày 15-4-2016 còn nhỏ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con cần giao con chung cho chị Phạm Thị Vân A trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị Vân Anh và anh T tự giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản: Chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T tự giải quyết, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, chị Phạm Thị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 146, khoản 4 Điều 147, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Vân A được ly hôn với anh Nguyễn Bá T.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Như Q sinh ngày 15-4-2016 cho chị Phạm Thị Vân A trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T tự giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Chị Phạm Thị Vân A và anh Nguyễn Bá T tự giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị Vân A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Vân Anh đã nộp tạm ứng 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện VB theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001376 ngày 19-3-2019. Chị Phạm Thị Vân A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 06/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về