Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 06/06/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/06/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 360/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2018 về việc “ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị H; sinh năm 1976; trú tại: Số X, đường T, tổ M, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Tất Th; sinh năm 1973; trú tại: Số X, đường T, tổ M, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 20/9/2018 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Phan Thị H trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là ông Lê Tất Th kết hôn vào năm 1997, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Y, huyện Yn, tỉnh N, hôn nhân tự nguyện. Vợ chồng sống hạnh phúc được 18 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Hai người sống ly thân từ năm 2016 đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông Th. 

Về con chung: Bà H trình bày, bà và ông Th có 02 con chung tên Lê Ngọc Ph, sinh năm 1997, Lê Tất Phát Đ, sinh ngày 26/6/2005, hiện cháu Ph đã trên 18 tuổi. Bà H có nguyện vọng nuôi cháu Đ và yêu cầu ông Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ.

Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản khai ngày 11/10/2018 và quá trình giải quyết vụ án ông Lê Tất Th trình bày: Ông thống nhất với ý kiến của bà H về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung. Ông công nhận vợ chồng có mâu thuẫn nhưng vì thương con nên ông chưa muốn ly hôn. Ông đồng ý giao cháu Đ cho bà H nuôi và không đồng ý cấp dưỡng nuôi con vì ông cho rằng thu nhập của ông không ổn định, hơn nữa ông thường xuyên bị bệnh phải điều trị nên không có khả năng cấp dưỡng nuôi con.

Tại bản tự khai ngày 28/3/2019 cháu Lê Tất Phát Đ trình bày: trường hợp bà H, ông Th ly hôn thì nguyện vọng của cháu được ở với bà H. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa bà H giữ nguyên yêu cầu đề nghị được ly hôn với ông Th và nguyện vọng được nuôi cháu Đ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Đương sự đã tuân thủ đúng theo trình tự của phiên tòa sơ thẩm quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, cho bà H và ông Th ly hôn. Giao cháu Lê Tất Phát Đ, sinh ngày 26/6/2005 cho bà H nuôi dưỡng, ông Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng theo quy định của pháp luật. Bà H và ông Th phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Ông Lê Tất Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa do đó căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị H ông Lê Tất Th kết hôn vào năm 1997, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Y, huyện Yn, tỉnh Nghệ An, hôn nhân tự nguyện. Vợ chồng sống hạnh phúc được 18 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Hai người sống ly thân từ năm 2016 đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Xét mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của bà H, cho bà H và ông Th được ly hôn.

[3]. Về con chung: Cháu Lê Ngọc Ph, sinh năm 1997, đã trên 18 tuổi. Cháu Lê Tất Phát Đ, sinh ngày 26/6/2005, bà H có nguyện vọng nuôi cháu Đ, nguyện vọng của bà H phù hợp với ý kiến của cháu Đ, phù hợp quy định của pháp luật cần chấp nhận giao chát Đ cho bà H nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con, bà H yêu cầu ông Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ, ông Th không đồng ý, với lý do thu nhập của ông không ổn định và hiện tại ông đang bị bệnh phải điều trị thường xuyên. Xét đề nghị của ông Th là không có căn cứ, cần buộc ông Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, với mức 1.000.000đ/ tháng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5]. Về án phí: Bà H phải nộp án phí ly hôn, ông Th chịu án phí cấp dưỡng định kỳ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định qui định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Phan Thị H và ông Lê Tất Th.

2/ Về con chung: Giao cháu Lê Tất Phát Đ, sinh ngày 26/6/2005 cho bà Hnuôi, ông Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Quyền thay đổi người nuôi con, quyền thăm nom con sau khi ly hôn và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo Luật Hôn nhân và Gia đình.

3/ Về án phí: Bà Phan Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí HNGĐ sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0002629 ngày 12/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Ông Th phải nộp 300.000đ án phí cấp dưỡng định kỳ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có quyền kháng cáo, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 06/06/2019 về ly hôn

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về