Bản án 26/2018/HS-ST ngày 29/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 26/2018/HS-ST NGÀY 29/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 03 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Trì - thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2018/HSST ngày 15/03/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/QĐXXST - HS ngày 16/03/2018 đối với bị cáo:

ĐỖ VĂN N , sinh năm 1980; Nơi ĐKNKTT: Tổ 16, phường T, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; Chỗ ở: Không xác định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn H (đã mất) và bà Đỗ Thị M; có vợ là Phạm Thị B và 03 con: lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 20/12/2017; Danh chỉ bản số 0027 lập ngày 21/12/2017 tại Công an huyện Thanh Trì; Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Số 35B Liền kề 25, khu tái định cư N, phường H, quận H, Hà Nội (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11h40' ngày 20/12/2017, tổ công tác Đồn công an Cầu Bươu - Công an huyện Thanh Trì làm nhiệm vụ tại Khu đô thị C, thôn Y, xã T, Hà Nội kiểm tra hành chính đối với Đỗ Văn N, phát hiện N đang cất giấu 01 gói giấy kích thước 01 x 1,5cm bên trong có chất bột màu trắng tại túi quần bên trái của N. Tại chỗ, N khai gói chất bột là Heroine nên Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của N 01 xe môtô BKS 29T - 9974, số khung 40105809, số máy 105809; 01 điện thoại di động Mastel màu đen bên trong lắp sim số 0941435650 đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thanh Trì đã trưng cầu giám định đối với gói chất bột đã thu giữ của N. Tại bản Kết luận giám định số 1144 ngày 05/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: chất bột màu trắng bên trong gói giấy là ma túy loại Heroine, trọng lượng 0,112gam. Quá trình giám định, Cơ quan giám định đã sử dụng hết 0,02 gam để làm giám định, hoàn trả cho Công an huyện Thanh Trì 0,092gam.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Văn N khai nhận: Khoảng 11h30' ngày 20/12/2017, N điều khiển xe mô tô Suzuki màu xanh, BKS 29T6 - 9974 đến khu vực Bệnh viện 09 - xã T, huyện T, Hà Nội gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 01 gói heroine với giá 100.000đồng. N cất gói heroine vừa mua được vào túi quần phía trước bên trái đang mặc và điều khiển xe mô tô đến khu vực bãi đất trống gần khu đô thị C để sử dụng thì bị cơ quan công an phát hiện, bắt giữ N và thu giữ toàn bộ tang vật.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 29T6 - 9974 thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn H (sinh năm 1981, trú tại Số 35B, LK 25 Khu tái định cư N, phường H, Quận H, Hà Nội) cho N mượn. Anh H không biết việc N sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe cho anh H.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel tạm giữ của N là tài sản cá nhân của N, không sử dụng vào việc mua ma túy nhưng cần tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho N, do N không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, đặc điểm nhận dạng của người này nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

Bản cáo trạng số 20/CT - VKSTT ngày 13/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì đã truy tố bị cáo Đỗ Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (Khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999).

Tại phiên toà:

* Bị cáo Đỗ Văn N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì truy tố bị cáo là đúng. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt do hoàn cảnh gia đình các bị cáo gặp nhiều khó khăn.

* Anh Nguyễn Văn H đã nhận lại chiếc xe mô tô BKS 29T6 - 9974 và không yêu cầu gì đối với bị cáo.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

- Áp dụng khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,092gam heroine thu giữ của bị cáo.

- Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Trì, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11giờ40' ngày 20/12/2017, tại Khu đô thị C, thôn Y, xã T, huyện T, Hà Nội, Đỗ Văn N đã có hành vi cất giấu 0,112gam heroine tại túi quần phía trước bê trái thì bị Tổ công tác Đồn công an Cầu Bươu - Công an huyện Thanh Trì, Hà Nội bắt quả tang. Hành vi của Đỗ Văn N đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì truy tố bị cáo ra trước Tòa án để xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

Căn cứ các quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 về việc áp dụng quy định có lợi của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 là có lợi hơn cho bị cáo, cụ thể:

Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định : « 1.Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm »

Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định : « 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến năm năm:

c) Hêroin, cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;»

Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng quy định có lợi của Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội và là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự đối với các bị cáo. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo đảm trật tự trị an xã hội cần phải nghiêm trị, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo bị cáo và giáo dục phòng ngừa chung cho mọi người.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: «Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng 500.000.000 đồng » . Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy : 0,092 gam Heroine (trọng lượng còn lại sau khi giám định) hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Thanh Trì.

- Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động Mastel đã qua sử dụng (Hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của UBTV Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được kháng cáo bản án theo Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho N do N không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, không nhận dạng được người này, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh làm rõ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc mô tô nhãn hiệu SUZUKI màu xanh BKS 29T6 – 9974 cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu là anh Nguyễn văn H. Anh H đã nhận lại xe, không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Trì tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn N phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

2. Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn N 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 20/12/2017.

3. Về áp dụng biện pháp tƣ pháp, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy : 0,092 gam Heroine (trọng lượng còn lại sau khi giám định) thu giữ của bị cáo hiện đang lưu giữ tại kho tang vật Công an huyện Thanh Trì, Hà Nội.

- Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mastel A115 màu đen đã qua sử dụng, bên trong có sim số 0941435650 hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì, Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2018 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Căn cứ các điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HS-ST ngày 29/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về