Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 26/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22/05/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 98/2018/TLST- HNGĐ ngày 01/02/2018 về việc: Tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐST-HNGĐ ngày 23/04/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị V, sinh năm 1991

HKTT: xã N, huyện T, Bắc Giang (Có mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Thẩm Văn Th, sinh năm 1985

HKTT: phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị V trình bày:

Chị và anh Thẩm Văn Th đăng ký kết hôn ngày 15/5/2009 tại UBND phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau được ba tháng thì chị về nhà bố mẹ đẻ ở Bắc Giang để ở. Nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống. Anh Th hay đánh chị nên khiến chị rất lo sợ. Từ khi chị về nhà bố mẹ đẻ ở, anh Th cũng không đến tìm và hỏi thăm. Anh chị đã ly thân với nhau từ tháng 9 năm 2009 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Chị và anh Th cũng đã cắt đứt quan hệ sinh lý với nhau từ lâu vì chị không còn cảm xúc gì với anh Th. Đến nay, chị V thấy cuộc sống chung của anh chị không còn hạnh phúc, chị không thể tiếp tục chung sống với anh Th được nữa nên xin được ly hôn.

Về con chung: Anh chị không có con chung. Cháu Hoàng Mạnh L, sinh ngày 04/8/2017 là con đẻ của chị, không phải con đẻ của anh Th. Khi ly hôn, chị không yêu cầu gì về con cái và cũng không yêu cầu anh Th đóng góp gì.

Về tài sản chung và công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – Anh Thẩm Văn Th trình bày:

Anh và chị V đăng ký kết hôn năm 2009 tại UBND phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị sống với nhau được khoảng ba tháng thì xảy ra mâu thuẫn, chị V tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ từ năm 2009 đến nay. Anh chị cũng đã ly thân từ đó, không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Tuy nhiên, anh vẫn muốn chị V quay lại đoàn tụ. Anh không có biện pháp nào để hòa giải hay hàn gắn với chị V, chỉ biết là anh không đồng ý ly hôn.Anh vẫn còn tình cảm với chị V. Cháu Hoàng Mạnh L không phải con đẻ của anh. Nếu chị V quay lại đoàn tụ, anh vẫn chấp nhận cháu bé.

Về tài sản chung và công nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thẩm quyền: Toà án nhân dân quận Long Biên đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán lập hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành giao các văn bản tố tụng và tiến hành trình tự, thủ tục tại phiên toà đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng tại phiên toà đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn, bị đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng đúng các quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình và Điều 220, 266, 267 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí Tòa án đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V đối với anh Th.

+ Con chung: Anh chị không có con chung.

+ Tài sản chung: Không có, đương sự không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:

*Về tố tụng: Anh Thẩm Văn Th có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết và tại phiên tòa xét xử vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh Th là phù hợp với quy định của pháp luật.

* Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh Th đăng ký kết hôn với nhau tháng 5 năm 2009 tại UBND phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội. Đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau được ba tháng thì chị V về nhà bố mẹ đẻ ở Bắc Giang để ở. Nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống. Thời gian chị V về nhà bố mẹ đẻ ở, hai anh chị không gặp gỡ, không nói chuyện với nhau để hàn gắn quan hệ vợ chồng. Anh chị đã cắt đứt quan hệ sinh lý và ly thân từ năm 2009 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Anh chị cũng không có biện pháp nào để hàn gắn quan hệ vợ chồng. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị V và anh Th đã căng thẳng trầm trọng kéo dài, cuộc sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V đối với anh Th là có căn cứ và phù hợp với pháp luật.

* Về con chung: Cháu Hoàng Mạnh L sinh ngày 04/8/2017 do chị Hoàng Thị V sinh ra. Tại kết luận giám định pháp y về AND số 48/18/TC- AND ngày 26/3/2018 của Viện pháp y Quốc Gia thể hiện anh Thẩm Văn Th không có quan hệ huyết thống cha- con với cháu Hoàng Mạnh L. Do đó có căn cứ để kết luận hai anh chị không có con chung. Chị V, anh Th không yêu cầu gì về con nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

* Về tài sản chung và công nợ: Chị V và anh Th không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

* Về án phí: Chị V phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị V đối với anh Thẩm Văn Th. Chị V được ly hôn với anh Th.

2. Về con chung: Xác định anh chị không có con chung. Cháu Hoàng Mạnh L, sinh ngày 04/8/2017 không có quan hệ huyết thống cha- con với anh Thẩm Văn Th. Chị V, anh Th cũng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

3. Về tài sản chung và công nợ: Chị V và anh Th không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

4. Về án phí: Chị V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị V đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0000087 ngày 01/02/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên. Nay chuyển thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm.

Chị V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:26/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về