Bản án 26/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ AN, CAO BẰNG

BẢN ÁN 26/2017/HSST NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/9/2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2017/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo: Bùi Duy N; Sinh ngày 21 tháng 12 năm 1985;

Nơi ĐKHKTT: Xóm B, xã H, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở hiện nay: Xóm N, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng.

Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Bùi Duy Th và bà Đinh Thị M; Có vợ Phùng Thị H và có 02 con; Anh chị em ruột: bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 21/6/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Bản cáo trạng số 26/Ctr-VKS ngày 06/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Bùi Duy N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự với những hành vi như sau: Ngày 21/6/2017 sau khi liên lạc với Nguyễn Văn C (sinh năm 1982, trú tại: Xóm B, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng) và nhận được đề nghị bán ma túy cho C, bị cáo Bùi Duy N đã đi xe máy xuống Thành phố C mua 01 gói Hêrôin với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) từ một người đàn ông không biết tên tuổi, có địa chỉ tại đầu cầu Nà Cạn, Thành phố C, tỉnh Cao Bằng để bán lại cho Cao. Khi đợi Cao đến giao dịch tại đoạn đường Quốc lộ thuộc xóm B, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng thì bị cáo N bị Cơ quan điều tra bắt quả tang về hành vi tàng trữ 01 gói Hêrôin có trọng lượng 0,32 gam với mục đích để bán lại cho C. Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ vật chứng có liên quan là 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng của bị cáo N; 01 xe mô tô nhãn hiệu EXCITER GP màu xanh đã qua sử dụng biển kiểm soát 11H1-09261.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ được trong khoảng thời gian tháng 6/2017, bị cáo N đã nhiều lần bán Hêrôin cho những người nghiện khác gồm: Nguyễn Văn C (02 lần), Nông Trung K (02 lần), Nguyễn Xuân H và Nguyễn Đình L (chung 01 lần). Riêng đối với Nguyễn Xuân H còn được bị cáo N bán ma túy cho trước đó nhiều lần vào khoảng thời gian trước tháng 6/2017.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo N từ 07 đến 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Đồng thời đề nghị áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự, Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự về việc xử lý vật chứng như sau:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng Hêrôin là vật chứng của vụ án;

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng, có số IMEL 1: 868573028682331, IMEL 2: 868573028682323;

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, do vậy đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo N không có ý kiến gì với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt nhưng đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và của người tham gia tố tụng đều hợp pháp.

Về hành vi của bị cáo đã thực hiện, tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi mua ma túy về đem bán lại cho người khác, lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của những người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, qua đó đã xác định được do bản thân nghiện ma túy nên bị cáo đã nhiều lần mua Hêrôin về để bán lại cho người khác nhằm kiếm lời để quay vòng cho việc sử dụng Hêrôin của bản thân. Tại Kết luận giám định số 134/GĐMT ngày 18/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng đã kết luận mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại ma túy Hêrôin.

Hêrôin là một dạng ma túy độc dược gây nghiện Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi bán ma túy cho người khác là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện với mục đích vụ lợi.

Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Bùi Duy N phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" được quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự. Trong vụ án này, bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán ma túy nhiều lần; do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung "phạm tội nhiều lần". Tại điểm b khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định: "Phạm tội trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười năm năm:

a) ...

b) Phạm tội nhiều lần";

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên Bản cáo trạng truy tố bị cáo Bùi Duy N về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2

Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, thấy rằng: trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Về tính chất mức độ hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội với mức độ rất nghiêm trọng, đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn và khiến dư luận quần chúng hết sức bất bình; bị cáo đã thực hiện hành vi bán ma túy nhiều lần, bán cho nhiều người; do vậy để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật cần áp dụng mức hình phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt mới tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng.

Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với những người phạm tội này. Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với những người đã mua ma túy với bị cáo gồm Nguyễn Văn C, Nông Trung K, Nguyễn Xuân H và Nguyễn Đình L đã bị Cơ quan điều tra xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên HĐXX không đặt vấn đề ra xem xét. Đối với người bán ma túy cho bị cáo, cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này nên HĐXX không đặt vấn đề ra xem xét.

Về việc xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng là Hêrôin thu giữ được trong vụ án, đây là loại ma túy độc dược Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng, có số IMEL 1: 868573028682331, IMEL 2: 868573028682323; xét thấy đây là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc liên lạc bán ma túy nên cần tịch thu, phát mại sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu EXCITER GP màu xanh đã qua sử dụng biển kiểm soát 11H1-09261, xét thấy xe mô tô này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan điều tra đã hoàn trả lại cho vợ của bị cáo bà Phùng Thị H là chủ sở hữu trong giai đoạn điều tra là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX không đặt vấn đề ra xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Duy N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Bùi Duy N;

Xử phạt bị cáo Bùi Duy N 07 năm 06 tháng (Bẩy năm sáu tháng) tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt ngày 21 tháng 6 năm 2017.

2. Về việc xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng ma túy là tang vật của vụ án, bên ngoài ghi "Vật chứng vụ án Bùi Duy N - Mua bán trái phép chất ma túy";

- Tịch thu phát mại, sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, đã qua sử dụng, có số IMEL 1: 868573028682331, IMEL 2: 868573028682323.

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa An, Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2017.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án

Bị cáo Bùi Duy N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2017/HSST ngày 25/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về