TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 261/2019/HS-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 259/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 263/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Ngô Đăng A, sinh năm 1984;
HKTT: thôn NV, xã HT, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông: Ngô Đăng Â, sinh năm 1958; con bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1959; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ: Bùi Thị Th, sinh năm 1992; con: có 01 con, sinh năm 2012;
Tiền án, tiền sự: không Nhân thân: Tại bản án số 40/2015/HSST ngày 29/06/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 03/4/2017, chấp hành xong án phí ngày 23/8/2015.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/7/2019 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh.
* Người bị hại: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983; Trú tại: khu Tiên Xá, phường Hạp Lĩnh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1981; Trú tại: khu Thượng, phường Khắc Niệm, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 17/7/2019, Ngô Đăng A đi bộ trên vỉa hè thuộc khu Tiên Xá, phường Hạp Lĩnh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (hướng đi từ Thuận Thành đến Bắc Ninh), khi đi đến cửa hàng bán đồ gỗ nội thất của anh Nguyễn Văn H thì A phát hiện thấy 01 chiếc điện thoại di động Sam Sung A6 Plus màu xanh để ở trên kệ gỗ kê sát cửa ra vào. A quan sát thấy không có ai trông coi điện thoại nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này để bán lấy tiền tiêu xài. A đi đến vị trí để chiếc kệ gỗ, dùng tay phải cầm chiếc điện thoại rồi đút vào túi quần của mình. Sau khi lấy trộm, A tiếp tục đi bộ đến trên cầu Bồ Sơn. Tại đây, A cầm cố chiếc điện thoại trộm cắp được với giá 800.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết số tiền này. Đến khoảng hơn 10 giờ ngày 18/7/2019, A quay lại cửa hàng điện thoại và nói với chủ quán là muốn bán chiếc điện thoại trên, chủ quán đồng ý và trả giá 1.500.000đ nhưng A không đồng ý. Sau đó A đi bộ ra chân cầu Bồ Sơn hỏi xem có ai mua điện thoại không. Tại đây, A gặp anh Nguyễn Văn T làm nghề lái xe ôm. A và anh T thống nhất, anh T bỏ số tiền 830.000 đồng để chuộc điện thoại cho A, sau đó đưa A đến một cửa hàng điện thoại di động ở khu T, phường KN để hỏi giá chiếc điện thoại mà A trộm cắp, nếu cửa hàng trả giá bao nhiêu thì anh T sẽ trả thêm cho A số tiền là 200.000 đồng. Sau khi hỏi giá chiếc điện thoại trên là 2.500.000đ thì A và anh T thống nhất, A bán chiếc điện thoại này cho T với giá 2.650.000 đồng. Sau khi trừ 830.000 đồng tiền chuộc điện thoại và 20.000 đồng tiền chở xe ôm, anh T đưa cho A 1.800.000 đồng. Số tiền bán điện thoại A đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản định giá số 204/KL-HĐ ngày 20/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Ninh kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung A6 + màu xanh đen đã qua sử dụng trị giá 5.400.000 đồng (năm triệu bốn trăm ngàn đồng chẵn) Khi mua điện thoại của A anh Nguyễn Văn T không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có. Anh T đã tự nguyện nộp lại chiếc điện thoại SamSung A6 Plus mua của A cho CSĐT Công an TP Bắc Ninh. Cơ quan CSĐT CA TP Bắc Ninh đã trả lại cho anh Nguyễn Văn H chiếc điện thoại trên.
Với nội dung trên, bản cáo trạng số 215/CT – VKSBN – P3 ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Ngô Đăng A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Đăng A thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo A rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và mong HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng khoan hồng xử phạt với mức án nhẹ nhất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T trình bày: Ngày 18/7/2019, anh T có mua 01 chiếc điện thoại Samsung A6 plus của A với giá 2.650.000 đồng. Khi mua A không nói và anh T không biết chiếc điện thoại này là do A phạm tội mà có. Sau đó, anh T đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên cho cơ quan công an để phục vụ điều tra vụ án. Nay cơ quan công an đã trả lại chiếc điện thoại cho người bị hại. Anh T đồng ý và đề nghị A phải trả lại số tiền anh T mua điện thoại là 2.650.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Ngô Đăng A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Ngô Đăng A từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2019;
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Ngô Đăng A phải trả lại cho anh Nguyễn Văn T số tiền 2.650.000 đồng, là tiền anh T mua điện thoại của bị cáo.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại SamSung A6 plus cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn H là phù hợp.
Bị cáo không tham gia tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tranh luận với Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ngô Đăng A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu. Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa và những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 17/7/2019, lợi dụng sơ hở khi không có ai quản lý tài sản, Ngô Đăng A đã lấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A6 plus màu xanh trị giá 5.400.000 đồng của anh Nguyễn Văn H nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Với nội dung trên, đủ cơ sở kết luận bị cáo Ngô Đăng A phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, tạo dư luận xấu, gây bức xúc trong xã hội và hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình mới đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Ngô Đăng A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét về hình phạt đối với bị cáo Ngô Đăng A: Bị cáo A là đối tượng có nhân thân xấu đã từng bị đưa ra xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đã được đi cải tạo, giáo dục nhưng nay tiếp tục phạm tội. Điều này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo và cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[4]. Về trách nhiệm dân sự:
Người bị hại là anh Nguyễn Văn H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên tòa án không giải quyết.
Đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T đề nghị bị cáo Ngô Đăng A phải trả lại số tiền 2.650.000 đồng, là tiền anh T trả cho A để mua chiếc điện thoại. Hội đồng xét xử thấy rằng: khi mua, A không nói và anh T không biết chiếc điện thoại mà A bán là do phạm tội mà có. Sau khi biết sự việc, anh T đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại trên để trả cho người bị hại. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo A cũng đồng ý trả cho anh T số tiền 2.650.000 đồng. Xét thấy, yêu cầu của anh Nguyễn Văn T là phù hợp cần được chấp nhận.
[5]. Về vật chứng:
- Đối với chiếc điện thoại SamSung A6 plus màu xanh: Chiếc điện thoại trên là tài sản của anh Nguyễn Văn H do A trộm cắp sau đó bán cho anh T. Cơ quan công an đã trả lại cho anh Nguyễn Văn H là phù hợp.
- Đối với chiếc USB có ghi lại đoạn video trích xuất camera nhà anh Nguyễn Văn H do anh Huấn nộp cho cơ quan điều tra. Xét thấy đây là dữ liệu điện tử anh H tự nguyện giao nộp và là tài liệu quan trọng trong hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục lưu hồ sơ.
[6]. Về án phí: Bị cáo Ngô Đăng A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về lệ phí, án phí 1. Tuyên bố bị cáo Ngô Đăng A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Ngô Đăng A 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 20/7/2019.
Căn cứ Điều 329 BLTTHS Quyết định tạm giam bị cáo Ngô Đăng A 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo Ngô Đăng A phải trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn T số tiền 2.650.000 đồng.
Kể từ ngày bản án phát sinh hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng phải chịu một khoản lãi của số tiền chậm thi hành án theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về vật chứng trong vụ án:
Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi lại đoạn video trích xuất camera nhà anh Nguyễn Văn Huấn do anh Huấn nộp cho cơ quan điều tra.
4. Bị cáo Ngô Đăng A phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 261/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 261/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về