Bản án 261/2019/HS-PT ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 261/2019/HS-PT NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 176/2019/TLPT-HS ngày 25/4/2019 đối với các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HSST ngày 20/03/2019 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần N T (tên gọi khác: Đạt); giới tính: Nam; sinh năm 1981, tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú: ấp 5, xã X H, huyện X L, tỉnh Đồng Nai; tạm trú: số 36/C, khu phố TN, phường DA, thị xã DA, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 07/12; con ông Trần H (chết) và bà Lê Thị A; vợ: Nguyễn Thị S; con: có 01 con sinh năm 2008; tiền sự: không.

- Tiền án: Ngày 25/08/2011, bị Toà án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 192/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 01/07/2012. Ngày 27/02/2013, bị Toà án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 24/2013/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/10/2014. Ngày 07/04/2015, bị Toà án nhân dân huyện DT, tỉnh Bình Dương xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 33/2015/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/08/2017.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 30/04/2018 (có mặt).

2. Lỗ Trần Huy H(tên gọi khác: Mén); giới tính: Nam; sinh năm 1992, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 300 BBD, Phường 15, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không có nơi ở cố định; quốc tịch: Việt nam; dân tộc kinh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn 01/12; cha: không rõ; con bà Lỗ Kiều A (chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

- Nhân thân: Ngày 04/02/2010, bị Toà án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 21/07/2011. Ngày 20/09/2012, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 20/09/2015. Ngày 08/01/2019, bị Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 30/04/2018 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

+Bị hại:

1/Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1987; cư trú: 623/A Đường số 10, khu phố 2, phường HBP, quận T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2/Ông Nguyễn Phương N, sinh năm 1987; cư trú: 37 Đường số 2, khu phố k, phường BC, quận T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h00’ ngày 30/04/2018, Trần N T rủ Lỗ Trần Huy H đi trộm cắp tài sản, Lỗ Trần Huy H đồng ý. Trần N T điều khiển xe gắn máy Yamaha hiệu Sirius biển số 60B5-815.03 chở Lỗ Trần Huy H đến trước nhà số 615 Quốc lộ 13, khu phố 3, phường HBP, quận T D, Thành phố Hồ Chí Minh thì thấy chiếc ô tô Camry biển số 61A-351.46 đang dừng ở lề đường, trên xe có ông Nguyễn Quốc T đang ngủ. Lỗ Trần Huy H đến mở cửa xe lấy 01 túi xách màu đen (bên trong có: 01 máy tính xách tay hiệu Asus, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng và 210.000.000 đồng). Ông Nguyễn Quốc T phát hiện, truy hô và chạy bộ đuổi theo. Cùng lúc đó, Tổ hình sự đặc nhiêm Công an quận T D, Thành phố Hồ Chí Minh đang đi tuần tra đuổi theo bắt được Trần N T và Lỗ Trần Huy H đưa về Công an phường HBP, quận T D lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng vụ án: 01 xe gắn máy Yamaha hiệu Sirius biển số 60B5- 815.03 (số khung RLCUE3240HY105809, số máy E3X9E-297860), 01 túi xách màu đen, 01 máy tính xách tay hiệu Asus, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng, 210.000.000 đồng và 500.000 đồng.

Tại biên bản định giá tài sản số 1837/UBND-TCKH ngày 21/08/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 túi xách màu đen trị giá 100.000 đồng, 01 máy tính xách tay hiệu Asus trị giá 15.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng trị giá 2.600.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, Trần N T và Lỗ Trần Huy H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và cả hai còn thừa nhận đã cùng nhau thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

- Ngày 03/04/2018, Trần N T và Lỗ Trần Huy H lấy chiếc bóp của ông Nguyễn Phương N bên trong có 8.600.000 đồng, chia nhau mỗi người 4.300.000 đồng.

- Ngày 29/04/2018, Trần N T và Lỗ Trần Huy H lấy chiếc điện thoại di động hiệu OPPO của người đàn ông không rõ lý lịch, sau đó đem bán cho ông Nguyễn Ngọc Hy được 500.000 đồng chia nhau.

Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Phương N yêu cầu bồi thường 8.600.000 đồng Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HSST ngày 20/3/2019 của Tòa án nhân dân quận T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

1. Tuyên bố: Trần N T và Lỗ Trần Huy H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt: Trần N T 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/04/2018.

3. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt: Lỗ Trần Huy H08 (tám) năm tù, tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Lỗ Trần Huy H phải chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/04/2018.

- Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 01/4/2019, Trần N T kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xem xét trị giá tài sản bị xét xử vì trong giỏ xách chiếm đoạt của bị hại không có số tiền 210.000.000 đồng.

Ngày 03/4/2019, Lỗ Trần Huy H kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt vì mức án quá nặng so với mức độ phạm tội của mình.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và bị cáo Hoàng bổ sung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị xét xử oan vì trong giỏ xách chiếm đoạt của bị hại không có khoản tiền 210.000.000 đồng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các tình tiết định khung, tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T kháng cáo trong thời gian luật định và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng bổ sung yêu cầu kháng cáo là hợp lệ nên cần được xem xét.

Xét, các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới và mức án xử phạt đối với bị cáo Trần N T 09 (chín) năm tù và bị cáo Lỗ Trần Huy H08 (tám) năm tù, tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc phải chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù; mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T tranh luận: đề nghị xem xét trong giỏ xách của bị hại khi các bị cáo chiếm đoạt trên đường bỏ chạy mở ra xem thì không có số tiền 210.000.000 đồng nên bị xét xử oan về số tiền này và mức hình phạt quá nặng nên xin giảm nhẹ hình phạt vì đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật để có cơ hội sớm chấp hành xong bản án và làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, Lỗ Trần Huy H và Trần N T mặc dù không thừa nhận trong giỏ xách các bị cáo chiếm đoạt của bị hại có số tiền 210.000.000 đồng nhưng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm, phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và bản cáo trạng truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ đồ vật – tài liệu, lời khai của (bị hại và người làm chứng), bản kết luận giám định cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21h00’ ngày 30/04/2018, các bị cáo Trần N T và Lỗ Trần Huy H đã có hành vi lợi dụng lúc ông Nguyễn Quốc T đang ngủ trong xe ô tô Camry biển số 61A-351.46 dừng trước nhà số 615 Quốc lộ 13, phường HBP, quận T D, thành phố Hồ Chí Minh, sơ hở trong việc quản lý tài sản để mở cửa xe ô tô lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là 01 túi xách màu đen bên trong có tài sản.

Xét, theo biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục 01- 02), biên bản tạm giữ đồ vật – tài liệu (bút lục 12), biên bản mở giỏ xách (bút lục 04), bản ảnh (bút lục 14) và biên bản về việc trả lại tài sản; phù hợp với lời khai của bị hại về số tài sản bị chiếm đoạt, trong đó có số tiền 210.000.000 đồng (kèm chứng từ giao dịch rút tiền tại ngân hàng trước đó của bị hại); có cơ sở xác định các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Quốc Thắng gồm: 01 giỏ xách màu đen hiệu Dell bên trong có: 01 máy tính xách tay hiệu Asus, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng và số tiền 210.000.000 đồng. Nhưng các bị cáo Trần N T và Lỗ Trần Huy Hkháng cáo và tại phiên tòa cho rằng bị xét xử oan sai vì trong giỏ xách chiếm đoạt của bị hại trên đường bỏ chạy mở ra xem không có số tiền 210.000.000 đồng, là không có cơ sở và chứng cứ để được chấp nhận.

Ngoài ra, trước đó các bị cáo Trần N T và Lỗ Trần Huy Hvào ngày 03/04/2018, còn cùng nhau lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc bóp của ông Nguyễn Phương N, bên trong có 8.600.000 đồng, chia nhau mỗi người 4.300.000 đồng hưởng lợi.

Tài sản các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T chiếm đoạt: Theo bản kết luận định giá tài sản số 1837/UBND-TCKH ngày 21/08/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 túi xách màu đen trị giá 100.000 đồng, 01 máy tính xách tay hiệu Asus trị giá 15.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng trị giá 2.600.000 đồng và 210.000.000 đồng (chiếm đoạt của anh Nguyễn Quốc T); và chiếm đoạt của anh Nguyễn Phương N 8.600.000 đồng. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 236.300.000 đồng, thuộc trường hợp “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.

Với trị giá tài sản chiếm đoạt và hành vi nêu trên của các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử Trần N T và Lỗ Trần Huy H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng với động cơ vụ lợi bất chính muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động vẫn cố ý phạm tội.

Xét về hình thức đơn kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T có đơn kháng cáo và tại phiên tòa, bị cáo H bổ sung yêu cầu kháng cáo; là làm trong thời hạn và hợp lệ theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội 02 lần trở lên; riêng bị cáo Trần N T còn bị kết án chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý; đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, bị cáo Lỗ Trần Huy H còn đang phải chấp hành hình phạt tù của bản án có hiệu lực pháp luật nên cần tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Trong vụ án, các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm nhưng mang tính giản đơn không có tổ chức, vai trò của các bị cáo là như nhau. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm chưa nhận định về tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo đồng phạm theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có thiếu xót. Ngoài ra, mặc dù các bị cáo không thừa nhận về trị giá tài sản chiếm đoạt đối với số tiền 210.000.000 đồng của ông Nguyễn Quốc Thắng nhưng quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình cùng đồng phạm, là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo đồng phạm và nhân thân bị cáo, mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm được xem xét thêm về tình tiết giảm nhẹ nêu trên trên nhưng mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo Trần N T 09 (chín) năm tù và Lỗ Trần Huy H08 (tám) năm tù, tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc chấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù; là thỏa đáng, không nặng, mới đủ tác dụng để răn đe giáo dục từng bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Do đó, kháng cáo của các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T xin giảm nhẹ hình phạt là không có cơ sở để chấp nhận nên giữ nguyên bản án sơ thẩm và bổ sung căn cứ điều luật áp dụng khi quyết định hình phạt cho phù hợp với quy định của pháp luật.

Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lỗ Trần Huy H và Trần N T và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Tuyên bố: các bị cáo Trần N T và Lỗ Trần Huy Hphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 173; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần N T 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/04/2018.

+Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Trần Huy H 08 (tám) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo Lỗ Trần Huy Hchấp hành hình phạt chung là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/04/2018.

+Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc Lỗ Trần Huy H và Trần N T, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 261/2019/HS-PT ngày 05/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:261/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về