TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 258/2018/HS-PT NGÀY 08/05/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 236/2017/TLPT- HS ngày 18 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo MKGS do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 126/2017/HSST ngày 07 tháng 4 năm 2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
MKGS, giới tính: Nữ; Sinh năm 1971, tại Malaysia; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Block A XXX SC, BS, S, Malaysia; Quốc tịch: Malaysia; Trình độ học vấn tại Malaysia: 9/12; Nghề nghiệp: không ; Con ông: GS và bà: JK; Chồng: TC, có 03 con (lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2001); Tiền án, Tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/11/2015 (có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Đỗ Hải B - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người phiên dịch: Ông Võ Huỳnh T - Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch thuật Phương Tây (có mặt).
Địa chỉ: Lê Văn S, phường Z, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 01 giờ 30 ngày 04/11/2015, Chi cục hải quan cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất kiểm tra hành lý của hành khách mang tên MKGS trên chuyến bay EK392 từ Dubai đến Việt Nam, đã phát hiện và bắt quả tang thu giữ tổng cộng 15 gói giấy bạc và 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4.983,0034 g, loại Cocain ( Kết quả giám định số 1896; 1898/KLGĐ-H ngày 20/01/2016 và Công văn số 465/PC54-Đ6 ngày 31/10/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an TP. Hồ Chí Minh ). Sau đó, Chi cục hải quan sân bay Tân Sơn Nhất tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, đồng thời chuyển hồ sơ cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an TP. Hồ Chí Minh xử lý theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra, MKGS khai nhận: Khoảng tháng 11/2014, M qua bạn bè quen biết một người đàn ông gốc Phi tên OSA ( thường trú tại Malaysia) . Đến khoảng tháng 01/2015, trong lúc đi ăn uống S đặt vấn đề thuê M vận chuyển hàng (gồm hàng mẫu) với tiền công mỗi chuyến đi trong nước là 3.000 USD và đi nước ngoài là 5.000 USD, chi phí tiền vé máy bay, ăn ở, thuê khách sạn do S lo. M đồng ý nhận lời và cho số điện thoại để liên lạc với S. Bắt đầu từ tháng 4/2015 đến khi bị bắt, M đã thực hiện vận chuyển hàng cho S từ Colombia về Malaysia và Thái Lan. Vào ngày 26/10/2015, theo yêu cầu của S và nhận 1.000USD, M đi sang Colombia để thực hiện việc vận chuyển hàng. Đến ngày 30/10/2015, M được 02 người đàn ông da đen ( M đã gặp ở chuyến vận chuyển lần trước) giao cho M 01 túi nylon, bên trong có 01 cuộn chỉ, ví, cặp, túi xách và 01 số cuộn giấy. Sau đó, M mang tất cả các đồ vật trên về khách sạn kiểm tra không thấy gì bên trong nhưng lại thấy nặng nên đã nghi ngờ có cất giấu ma túy và biết S là người buôn bán ma túy quốc tế, nên M đã điện thoại hỏi và S nói những đồ vật trên là hàng mẫu hợp pháp, đồng thời M đã vận chuyển được 02 lần nhưng không có vấn đề gì. Từ đó, M cho tất cả số đồ vật trên vào valy hành lý của mình để vận chuyển về Malaysia. Đến ngày 01/11/2015, M đi chuyến bay từ Colombia về Malaysia, khi quá cảnh tại Việt Nam thì bị Chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất phát hiện bắt quả tang như trên.
Tại bản án hình sự sơ thẩm 126/2017/HSST ngày 07 tháng 4 năm 2017 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Tuyên bố bị cáo MKGS phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy ”.
- Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194 ; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm c tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Xử phạt : Bị cáo MKGS Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Buộc bị cáo MKGS nộp phạt bổ sung 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 12 tháng 4 năm 2017 bị cáo MKGS kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo MKGS thừa nhận toàn bộ hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” như nhận định và tuyên xử của bản án sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên tòa phát biểu: Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm an toàn cho xã hội, cấp sơ thẩm truy tố xét xử bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Khi lượng hình hình, Tòa sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo, nên xử bị cáo MKGS mức án Tử hình là phù hợp. Tại phiên tòa bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thểm tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới để làm thay đổi mức hình phạt mà án sơ thẩm đã áp dụng. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho các bị cáo: Thống nhất tội danh và điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo MKGS. Luật sư phân tích thêm một số tình tiết để chứng minh rằng bị cáo không biết hàng hóa bị cáo vận chuyển là ma túy. Để xác định vai trò của bị cáo trong vụ án này, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, của luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định:
Bị cáo MKGS đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy có khối lượng 4.983,0034 g, loại Cocain cho người khác để hưởng tiền công, đã bị Chi cục hải quan sân bay Tân Sơn Nhất phát hiện bắt quả tang vào lúc 01 giờ 30 ngày 04/11/2015 tại cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất, TP. Hồ Chí Minh.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, ngày 29/11/2017 Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có Quyết định trưng cầu giám định hàm lượng ma túy trong khối lượng thu giữ trên của bị cáo MKGS. Tại kết luận giám định số 405/C54B ngày 17/01/2018 của Phân Viện khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận như sau: Chất bột màu trắng trong 5 gói nylon (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy; loại Cocaine, hàm lượng Cocaine là 67,51%; Chất bột màu trắng trong 01 gói nylon (ký hiệu M2) được niêm phong theo giám định là ma túy, loại Cocaine, hàm lượng Cocaine là 69,61%.
Như vậy với căn cứ vào kết luận giám định trên, thì hành vi của bị cáo đủ căn cứ kết luận: bị cáo MKGS đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 như cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo MKGS xin giảm nhẹ hình phạt Hội đồng xét xử thấy:
Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cao cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Ma túy là hiểm họa của con người, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, vì vậy pháp luật đã nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc người vi phạm liên quan đến chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật của Việt Nam nói riêng và pháp luật các nước trên toàn thế giới nói chung (Trong đó có Luật pháp Malaysia) quy định trừng phạt rất nghiêm khắc đối với loại tội phạm này, nhưng vì thu lợi nhuận cao bị cáo đã bất chấp hậu quả xảy ra.
Khi quyết định hình phạt Tòa sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tất cả các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo là đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, nhưng xét trong vụ án này bị cáo MKGS đã vận chuyển trái phép chất ma túy là Cocain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên, đây là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt theo điểm b khoản 4 của Bộ luật hình sự. Bị cáo đã vận chuyển số ma túy loại Cocain đặc biệt lớn theo hướng dẫn tại điểm c Tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nên mặc dù khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo tình tiết giảm nhẹ nhưng không đủ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt cao nhất, loại vĩnh viễn bị cáo khỏi đời sống xã hội nhằm răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội là phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo MKGS kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết gì mới, không đủ căn cứ để chấp nhận chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm hình phạt, do vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo MKGS, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.
[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo MKGS phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[4] Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 126/2017/HSST ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố Tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo MKGS. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm c tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tuyên bố: Bị cáo MKGS phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo MKGS tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Buộc bị cáo MKGS nộp phạt bổ sung 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo MKGS phải chịu 200.000 đồng.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm bị cáo MKGS có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.
Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 126/2017/HSST ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 258/2018/HS-PT ngày 08/05/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 258/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về