Bản án 258/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 258/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 188/2018/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2018, về “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số  41/2018/QĐXX-ST ngày 23/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09/8/2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lê Quang Th , sinh năm 1971(Có mặt)

Bị đơn: Chị Lê Bích Th , sinh năm 1982 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn T, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30 tháng 3 năm 2018 và các văn bản tố tụng khác, nguyên đơn anh Lê Quang Th  trình bày: Anh và chị Lê Bích Th  tổ chức cưới hỏi vào tháng 3/2002, trước khi cưới có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm, tự nguyện đi đến hôn nhân, có giấy đăng ký kết hôn do UBND xã N cấp. Sau khi cưới, vợ chồng sống ở thôn T,  xã N, thời gian đầu cuộc sống bình thường, mãi đến năm 2006 thì chị Th thay đổi  tính tình, ham  mê bài bạc, ít quan tâm đến gia đình và có những mâu thuẫn lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày,vợ chồng thường có lời qua tiếng lại. Đến năm 2017 thì xung đột vợ chồng xảy ra trầm trọng hơn vì vợ càng ham mê bài bạc, vui chơi với bạn bè, đêm về nhà rất khuya và thỉnh thoảng có đêm lại không về nhà. Trong năm 2017 chị Th  đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án, xong lại tự rút đơn. Vì thương con anh  rất nhiều lần khuyên bảo và nhắc nhở vợ, nhưng  chỉ khắc phục thời gian ngắn song vẫn tính nào tật nấy.Toàn bộ chi phí gia đình do anh xoay xở, ngay cả việchọc hành các con. Anh  không nhớ cụ thể thời gian, vợ đã tự bán 01 chiếc xe máy  và thế chấp 01 chiếc xe máy để có tiền vui chơi, và anh còn phải đứng ra trả tiền cho chủ nợ của chị Th .Thời gian gần đây rất nhiều người đến tìm chị Th, họ có cho anh xem giấy nợ do chị Th  viết. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay không ai quan tâm đến ai. Việc anh nộp đơn ly hôn chị Th  biết, nhưng sau khi nhận giấy tờ của Tòa án chị Th  bỏ đi, có nói với các con “ Mẹ đi làm, con ở nhà cố gắng học, mẹ đi làm sẽ về”, sau đó vài ngày chị Th nhắn tin cho anh với nội dung “Giờ nợ nần nhiều quá, tôi đi tìm việc làm trả nợ người ta, ông ở nhà nuôi hai đứa nhỏ, còn việc ly dị ông cứ nói Tòa xử vắng mặt tôi là được.”,  có vài lần anh liên lạc với chị Th  có lần nói là “Tòa cứ xử vắng mặt là được” có lần chị Th  im lặng. Thời gian  gần đây chị Th  về lấy xe máy do con trai làm phương tiện đi học,và bảo với con là “mẹ mượn xe làm phương tiện đi lại có tiền sẽ trả”. Hiện anh không còn tình cảm  với vợ  nên yêu cầu Tòa giải quyết cho được  ly hôn với  cô  Lê Bích Th .

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Lê Hoàng V1 , sinh ngày 02/5/2004 và tên Lê Thảo V2 , sinh ngày 22/7/2009. Ly hôn, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung giữa anh và chị Th .

Về tài sản chung và nợ : Anh Th  không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn Lê Bích Th  không có lời trình bày trong hồ sơ vụ án. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã  tống đạt hợp lệ cũng như làm thủ tục niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định về pháp luật tố tụng dân sự. Qua xác minh công an quản lý hộ khẩu ở địa phương cũng như một số người dân ở cùng làng xóm, chồng và các con của chị Th đều xác định chị vẫn đi về ở địa phương, nhưng cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng vụ  án trên.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến nay, tất cả các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và việc tuân thủ pháp luật của các đương sự, đều theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, riêng bị đơn chị Lê Bích Th  cố tình vắng mặt Tòa triệu tập và niêm yết hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của anh Lê Quang Th  cho anh được ly hôn với chị Lê Bích Th .

Về con chung, tài sản chung và nợ: Anh Th  không yêu cầu giải quyết, miễn xét.

Về án phí: Đề nghị áp dụng theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về mặt tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Anh Lê Quang Th  yêu cầu Tòa giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê Bích Th  nên xác định quan hệ pháp luật là  “Ly hôn  ” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn chị Lê Bích Th  cư trú tại xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định nên theo khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn.

[1.3] Về sự vắng mặt của  đương sự: Chị Lê Bích Th  là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ  lần thứ hai nhưng chị Th vẫn vắng mặt, không có lý do, theo điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt   bị đơn.

[2] Về mặt nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Anh Lê Quang Th  và chị Lê Bích Th đi đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, được Ủy Ban nhân dân xã N cấp giấy chứng nhận kết hôn. Về giấy kết hôn có nhầm năm sinh của anh Th nhưng UBND xã N đã có sự xác nhận về trường hợp trên. Anh chị đã xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Trong quá trình sống chung, thời gian đầu cuộc anh chị sống bình thường, nhưng từ năm 2006 đến nay thì không có hạnh phúc, xung đột vợ chồng ngày càng trầm trọng, điều đó thể hiện qua lời trình bày của anh Th. Nguyên nhân mâu thuẫn do chị Th  thay đổi tính tình, ham chơi cờ bạc, thường xuyên bỏ nhà, không trông nom chăm sóc con cái, anh đã nhiều lần khuyên bảo nhưng vẫn tính nào tật nấy, càng ham mê bài bạc, gây ra nợ nần, tự bán và thế chấp tài sản chung của vợ chồng là  02 chiếc xe máy để có tiền  vui chơi, làm ảnh hưởng kinh tế gia đình, không quan tâm đến việc học hành, ăn uống cho các con. Lời khai trên của anh Th phù hợp với lời khai của một số người dân ở địa phương thể hiện cụ thể qua các biên bản xác minh. Theo lời trình bày các con chung thì chị Th bỏ nhà đi tối ngày 02/5/2018 sau khi Tòa thụ lý vụ án, thỉnh thoảng chị về thăm con và có lần về lấy xe máy. Qua nội dung các tin nhắn và lời nói của chị Th với các con  thể hiện chị có nợ nần và đi làm trả nợ.

Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình “vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình…”  và quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Ly hôn theo yêu cầu của một bên “…nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có … vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” . Từ viện dẫn pháp luật với các chứng cứ phân tích ở trên, tình trạng vợ chồng giữa anh Th và chị Th đã  mâu thuẫn mức trầm trọng, thỏa mãn theo Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn  cho  anh Lê Quang Th  được ly hôn với chị Lê Bích Th .

[2.2] Về con chung: Anh Th không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.

[2.3] Về tài sản chung: Anh Th không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.

[2.4] Về án phí: Anh Lê Quang Th phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn, phù hợp với nhận định trên nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, 35, 39, 147, 227, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Áp dụng các Điều 19, 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lê Quang Th và  chị Lê Bích Th.

2. Về con chung: Anh Th không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét .

3. Về tài sản chung và nợ: Anh Th không yêu cầu giải quyết, nên miễn xét.

4. Về án phí: Anh Lê Quang Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0008646 ngày 27/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A.

5. Quyền kháng cáo: Anh Lê Quang Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Lê Bích Th vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 258/2018/HNGĐ-ST ngày 28/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:258/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về