Bản án 256/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 256/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 401/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 422/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thu L, sinh năm 1982;

Đa chỉ: Ấp B, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

- Bị đơn: Anh Mai Hữu Minh T, sinh năm 1970;

Đa chỉ: Ấp B, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 09/8/2019 và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Nguyễn Thu L trình bày:

Về hôn nhân: Chị với anh Mai Hữu Minh T tự nguyện chung sống với nhau năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Đ. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T không quan tâm lo lắng vợ con và coi thường cha mẹ vợ nên mâu thuẫn xảy ra ngày càng trầm trọng, sự việc được gia đình hai bên hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn không thay đổi được quan điểm và vợ chồng đã ly thân nhau từ tháng 8/2018 cho đến nay. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không ai còn có trách nhiệm với ai nữa, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị L xác định vợ chồng có 01 người con chung tên Mai Hữu Thành Đ sinh ngày 08/6/2015, hiện đang sống cùng với chị. Khi ly hôn chị L yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Đ, việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra.

Về tài sản và nợ: Chị L xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ ai và cũng không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

* Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án trực tiếp tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh Mai Hữu Minh T, hai lần thông báo hòa giải và hai lần triệu tập xét xử nhưng anh T không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của chị L, không tham gia hòa giải và xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh Mai Hữu Minh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị L với anh T chung sống với nhau năm 2014, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì mối quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thu L với anh Mai Hữu Minh T được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo chị L xác định trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh T không quan tâm lo lắng vợ con và coi thường cha mẹ vợ nên mâu thuẫn xảy ra ngày càng trầm trọng, gia đình hai bên hòa giải hàn gắn nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn không thay đổi được quan điểm, vợ chồng đã ly thân nhau từ tháng 8/2018 cho đến nay, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai còn có trách nhiệm với ai nữa, tại phiên tòa sơ thẩm chị L xác định không còn tình cảm với anh T vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với anh T; đối với anh Mai Hữu Minh T, mặc dù đã biết được nội dung khởi kiện xin ly hôn của chị L, nhưng anh T không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị L, điều này cho thấy anh T đã không mong muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này nữa. Mặt khác, xét thấy thời gian chị L và anh T ly thân cũng đã lâu, tình trạng hôn nhân giữa chị L với anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của chị L cho chị L được ly hôn với anh T là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị L và anh T có 01 người con chung tên Mai Hữu Thành Đ sinh ngày 08/6/2015, hiện chị L đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ; đối với anh T không ý kiến gì về con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi anh T và chị L ly thân cho đến nay cháu Đ do chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu Đ cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ; đối với việc cấp dưỡng cho con chị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản và nợ: Chị L xác định trong thời gian chung sống chị L và anh T không có tài sản chung, không có nợ ai và cũng không ai nợ lại anh chị, không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với anh T không có ý kiến gì về tài sản và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thu L, cho chị Nguyễn Thu L được ly hôn với anh Mai Hữu Minh T.

2. Về con chung: Giao cháu Mai Hữu Thành Đ sinh ngày 08/6/2015 cho chị L được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Đ tròn 18 tuổi; việc cấp dưỡng cho con không đặt ra. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thu L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0009730 ngày 12/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Chị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 256/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:256/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về